Đã 82
tuổi, cụ vẫn cùng những người thợ này vót từng cọng nan, đan nên cái
khung, kể nên câu chuyện về đèn lồng. Một lần đến Hội An, du khách nhìn
đèn lồng hắt bóng xuống sông Hoài, hay lặng lẽ soi qua một con ngõ tối,
nghe đèn kể chuyện về phố.
Chuyện của tre
Cuối thế kỷ XVI, người Trung Hoa và Nhật Bản đến Hội An, dựng lên
những hội quán, treo lên những chiếc đèn lồng. Khi chiến tranh dẫm nát
thế kỷ XX, những chiếc đèn cổ xưa này nép mình trong góc tối, chờ một
lần được chủ nhân treo trong đêm hoa đăng.
Cụ Huỳnh Văn Ba không phải người Hội An gốc. Cụ sinh ở huyện Thăng
Bình (Quảng Nam), nơi có tre mọc trên cát cháy. Đứa trẻ khi ấy là cụ,
chả thèm lấy lá dừa làm chong chóng, lấy lá mít làm trâu, mà vót tre đan
nên cái nón, con chim làm đồ chơi. Lớn lên một tí, còn biết đan mũ,
thúng, rá phụ gia đình. “Bán được chiếc thúng đầu tiên, tôi cầm tờ tiền
đưa mẹ, mắt mẹ bỗng rưng rưng. Từ dạo ấy, tôi biết tre sẽ nuôi sống đời
mình” – cụ nói.
Năm 1956, tản cư ra Hội An, từ cây tre, cụ “hóa phép” thành bất cứ mô
hình nào người ta yêu cầu, như: Chùa Một Cột, tháp Thiên Mụ, chùa Cầu…
Sau năm 1975, cái đói trói cái đẹp, chả ai mua đồ tre mỹ nghệ nữa, cụ
dẹp nghề. Năm 1978, Hợp tác xã mây tre được thành lập, mời cụ đứng kỹ
thuật.
Chỉ mấy năm sau, Hợp tác xã giải thể. Nỗi nhớ về tre day dứt, để vào
năm 1999, khi Hội An được công nhận Di sản văn hóa thế giới, ngày nọ, cụ
vào một gian nhà cổ, xin phép chủ nhân cho mượn một chiếc đèn cổ xem
thử, với nghĩ suy, từ tre, mình có thể làm bất cứ thứ gì, kể cả đèn
lồng.
Trong thâm tâm, cụ Ba chỉ coi sản phẩm của mình là một thứ đồ thủ
công đã quá quen thuộc. Nhưng người Hội An coi như kỳ tích, bởi xưa nay,
đèn lồng ở xứ này toàn từ Trung Quốc hay Nhật Bản mang sang, chưa có
người Việt nào thử làm bao giờ, nhất là làm theo cách hoàn toàn Việt Nam
như cụ Ba.
Người ta tìm tới cụ học nghề rồi nhân rộng ra. Đến nay, Hội An có 32
cơ sở làm đèn lồng, lại còn có riêng phố bán đèn trên đường Nguyễn
Hoàng. Năm 2010, cụ Ba được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân
ưu tú, cụ còn được chính phủ Nhật mời sang giới thiệu cách chế tác tre
thành đèn lồng.
“Tre, với tôi, là chiếc nôi đung đưa theo gió trưa, là món đồ chơi,
là đèn lồng, và sẽ là nuột lạt quấn chặt đòn khiêng ngày tôi nằm xuống;
Như thế, tre cùng tôi gắn bó suốt đời. Là người Việt, nên khi tập làm
cái đèn đầu tiên, tôi không muốn lặp lại thiết kế cổ xưa, tôi phải làm
cho nó mang hồn cốt Việt” - cụ Ba trải lòng.
Chuyện của đèn lồng
Với đèn tròn Trung Quốc, cụ chỉ bắt chước cách thiết kế, từ đó, Việt
hóa thành những kiểu đèn có dáng hình trái cây trong vườn mỗi nhà quê
mình, hình trái tỏi, hình quả na, táo, xoài, đu đủ… Cụ còn làm đèn kéo
quân, đèn hình rồng, hình cá, có loại giống chiếc thuyền, có loại bán
cầu úp vào tường, phá cách hơn là đèn hình viên kim cương hay đĩa bay…
“Khách yêu cầu giống cái gì, tôi sẽ làm giống nguyên cái đấy. Tre mua
về, tôi cưa ra, ngâm nước muối mười ngày, ra nan, luộc với bọt xà phòng
cho nan dẻo, phơi khô ba ngày nắng, lại thoa tiếp dầu bóng. Nối nan
bằng dây dù, gắn nan vào hai vòng gỗ hai đầu, thế là ra khung. Lấy vải
lụa cắt ra nhiều mảnh, bôi keo, căng lên khung, gắn khung vào chuôi gỗ
hình viên bi, thế là ra cái đèn thô” – cụ mô tả cách thức.
Nói là đèn thô bởi sau đó, cụ còn thêu lên những vải hình ảnh về Lạc
Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng… để khi treo lên, với màu đỏ của may mắn,
sắc vàng của tươi vui, huyết dụ của kiêu sa hay sắc xanh dịu ngọt, những
hình ảnh này phản chiếu trên mặt vải, theo gió quay tròn, kể cho du
khách nghe những truyền thuyết xưa của dân Việt. Nhưng, cụ ưng ý nhất là
loại đèn không bọc vải, toàn bằng tre; cụ bảo với loại đèn này, tre sẽ
phát tiết hết cái tinh túy trong từng cọng nan.
Một ngày đầu năm 2000, một du khách người Úc ngỏ ý một chủ nhà cổ
muốn có một chiếc đèn lồng dễ dàng xếp lại để tiện mang về nước. Vị chủ
nhà ấy nghĩ ngay đến cụ Ba. Nghe xong chuyện, cụ đã hình dung đến việc
làm loại đèn có thể xếp vào mở ra tùy ý. Mua một cái dù về, cụ nghiên
cứu kỹ cách thức nó xếp lại thế nào, để nửa tháng sau, chiếc đèn xếp đầu
tiên hình thành, mở ra một loại sản phẩm hoàn toàn mới.
Dù đèn dán vải hay đèn toàn tre, cụ cũng làm cho nó xếp được. Người
Hội An đều biết chính cụ là người khai sinh ra loại đèn này, dù không
một chứng nhận bản quyền.
Đến nay, đèn lồng xếp đã là thương hiệu Việt nổi tiếng thế giới, đã
xuất khẩu sang các nước Âu, Mỹ. Mấy chục năm gắn bó với nghề, cụ Ba buồn
khi biết nhiều cơ sở làm đèn chạy theo lợi nhuận, xử lý nan sơ sài, cho
ra những sản phẩm đèn kém chất lượng. “Nhưng với chính mình, tôi vui vì
được cùng tre gắn bó suốt đời” – cụ cười.
Rồi cụ tâm sự với một chút ưu tư: “Với tôi, chuyện của phố cũng là
chuyện của làng. Tre đã không còn mọc trên đất Hội An, phố dần vơi bớt
cổ, tình quê mất dần trong mỗi con người. Tôi nhìn vào chiếc đèn mình
làm, thân nan tre, áo lụa tơ tằm thêu lên truyền thuyết; nó sẽ được treo
ở villa hay resort và nó được làm từ những thứ chân quê nhất, để kể
những câu chuyện xưa nhất”.
Theo giaoducthoidai.vn