![Người đan lọng cuối cùng của xứ Quảng](http://3.i.baomoi.xdn.vn/w460x/16/02/26/146/18742691/1_50489.jpg)
Ông Nguyễn Quang Thiện.
Ngay
gian giữa nhà mình, trước bàn thờ gia tiên, ông Thiện dựng một cây lọng
làm từ mấy mươi năm trước. Gian trái, ông treo nhị, trống, sến... Chái
nhà, ông bày tre, vải... cùng những khung sườn lọng chưa hoàn thành. Ông
là nhạc công nức tiếng của làng Mỹ Xuyên và là người làm lọng cuối cùng
còn lại ở xứ Quảng. “Tôi học làm lọng lúc 10 tuổi, từ ông nội và cha.
Nhà có nghề làm lọng gia truyền, đến tôi là đời thứ năm rồi”- ông Thiện
nói. Những bí quyết để làm một cây lọng đúng chất cổ truyền, được ông kể
vanh vách. Đầu tiên là ông tìm thân tre đực thẳng cao khoảng 2m, phơi
khô đánh bóng làm thân lọng. Tiếp đến, lấy gỗ mít tiện thành hình khối
có đường kính chừng 10 cm gọi là gen; trên đầu gen xẻ ra 46 hay 48 đường
sâu (phải là số chẵn) để gắn những cây chống được làm từ nan tre, dài
khoảng 30 cm có 20 lỗ khoan. Để khoan cây chống, ngày xưa phải dùng
khoan tay, sau một ngày khoan, đến tối ông cầm trên tay một vắt cơm
nóng, cái nóng của cơm làm dịu đi những cơ gân căng nhức.
Những
cây chống này xếp xen kẽ vào gen. Gen này đục rỗng ruột rồi di động một
khoảng nhất định trên thân lọng, làm cho lọng giương lên hay xếp lại dễ
dàng. Tiếp đến là cây sườn, cũng giống như cây chống nhưng dài hơn và
được uốn cong một đầu, có 8 lỗ mạng và 1 lỗ cuối để nối với cây chống.
Ráp cây sườn vào cây chống, ráp cây chống vào gen, ráp gen vào thân
lọng, sẽ tạo thành một kết cấu giống hình chiếc dù, bán kính là 1,05m,
đủ rộng để phủ lên áo lọng – là loại giấy dai bền hay vải the, phết cật
hay sơn chống thấm, trang trí bằng các họa tiết rồng, phụng.
Kỹ
năng của người thợ là ở khâu thêu những hoa văn bao quanh cây chống và
cây sườn. Đầu tiên là giăng kiên. Tiếp theo là đan chéo hạt cườm, rồi
đan lát chả. Đan mạng nhện ở những giao điểm của cây chống và cây sườn
và đan sao cho khít, tránh để lộ những giao điểm, đồng thời làm cho cây
lọng khi giương lên căng cứng và thẳng góc với thân lọng. Phải chọn 7
màu len, phối màu sao cho hài hòa, bắt mắt.
![Người đan lọng cuối cùng của xứ Quảng](http://3.i.baomoi.xdn.vn/w460x/16/02/26/146/18742691/2_66061.jpg)
![Người đan lọng cuối cùng của xứ Quảng](http://3.i.baomoi.xdn.vn/w460x/16/02/26/146/18742691/3_67515.jpg)
Bộ khung lọng khi chưa thêu.
Nghề
làm lọng ở nước ta bắt đầu từ thời Lê- Mạc, ông tổ nghề là Lê Công
Hành. Lọng được gọi là dù thần hay dù quan. Ngày xưa, việc đi lại hàng
ngày hay công cán của vua và quan lại đều sử dụng lọng. Tùy theo cấp bậc
của quan mà chuyến công cán sẽ được bố trí bao nhiêu lọng và lọng có
màu sắc gì. Như vua thì đi 4 lọng vàng, hoàng tử đi 4 lọng màu đỏ hay
màu tía, các quan từ tuần phủ, đề đốc trở lên được đi bốn lọng xanh...
Theo ông Thiện, không chỉ có thế, mỗi cây lọng còn có chất liệu và được
trang điểm khác nhau tùy theo mỗi chức quan. Ông dẫn ra ví dụ: “Như lọng
của vua có gắn thêm 28 bông bèo, làm bằng chỉ bào lấy ở bẹ lá cây thơm
hoặc bằng bông nhuộm ngũ sắc, xâu chỉ thả lòng thòng dài rồi cột thắt
vào nan lọng, chóp lọng bằng bạc màu vàng, cán bằng gỗ sơn son. Lọng của
hoàng tử có đính 20 bông bèo, chóp lọng bằng màu thau mạ vàng, cán gỗ
sơn son. Lọng của các tuần phủ, đề đốc trở lên có 16 bông bèo, chóp lọng
bằng thiếc mạ bạc, cán bằng tre quét sơn màu cánh gián. Lọng các tân
khoa cử nhân có 4 bông bèo, chóp sơn xanh...
Lọng
được dùng trong các dịp lễ hội cũng khác nhau. Ví như khi rước thần bậc
thượng đẳng thì phải dùng 4 lọng màu vàng, mỗi lọng có đính 20 bông
bèo, chóp thếp vàng. Rước thần bậc trung đẳng đi 4 lọng vàng, có 16 bông
bèo, chóp bằng thiếc. Rước phúc thần đi 4 lọng xanh, có 12 bông bèo,
chóp sơn màu trắng... “Bởi thế, khi làm ra cây lọng, người làm lọng phải
biết nó sử dụng vào mục đích gì; bây giờ ở nhiều lễ hội người ta dùng
lọng sai quy định truyền thống nhiều lắm” - ông Thiện nói. Nằm ở bờ nam
sông Thu Bồn, làng Mỹ Xuyên được lập vào cuối thế kỷ XV, tiền hiền khai
cơ là Chánh Đề đốc Hùng Long Hầu Lê Quý Công, một vị tướng của vua Lê
Thánh Tông. Hiện, làng còn lưu giữ được 32 đạo sắc phong vào các đời
triều Nguyễn, là ngôi làng lưu giữ số lượng sắc phong nhiều nhất ở Việt
Nam. Và làng còn có nghề làm lọng nổi tiếng. Theo ông Thiện, thời ông
nội ông thì làng còn đến hơn 10 hộ làm lọng. Họ làm lọng phục vụ cho các
lễ hội, cho quan lại ở dinh trấn Thanh Chiêm phía bên kia sông Thu Bồn,
và làm theo đơn đặt hàng ngoài Huế.
Với người
Việt, nằm ngủ mơ thấy lọng là điềm lành trong thi cử, phát tài phát lộc,
và lọng cũng theo chân các tân khoa trong ngày vinh quy về làng: Học
trò đèn sách hôm mai/ Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào/ Làm nên quan
thấp, quan cao/ Làm nên vọng tía võng đào nghênh ngang.
Bây
giờ, làng Mỹ Xuyên chỉ còn mỗi ông Thiện làm lọng. Hình ảnh lọng chỉ
còn xuất hiện trong các nghi lễ ở đền chùa miếu mạo... Riêng ở Duy
Xuyên, cứ đến ngày 12-2 âm lịch, chiếc lọng vàng uy nghiêm xuất hiện
trong lễ hội Bà Thu Bồn, khiến nhớ đến Người mẹ xứ sở luôn hiển linh,
che chở cho tâm hồn người xứ Quảng. Vì yêu nghề và nhớ nghề, mỗi ngày,
ông Thiện vẫn đem hết tâm hồn mình thổi vào từng chi tiết, từng múi chỉ
đường kim. Nhưng: “Mỗi năm người ta đặt hàng tôi 5 cái, mỗi cái bán hơn 1
triệu đồng, mà làm ra một cây phải mất gần nửa tháng. Tôi làm lọng để
khuây khỏa tâm hồn thôi”–ông Thiện bộc bạch. Con cháu ông bây giờ không
ai theo nghề, tuy buồn nhưng ông biết dòng đời đổi thay là vậy.
Theo cadn.com.vn