Nghệ nhân làng nghề truyền thống – “Báu vật nhân văn sống” .
Nghệ nhân
làng nghề truyền thống là những “báu vật nhân văn sống”, bởi họ là người phát
minh ra những công nghệ độc đáo, tạo nên hồn cốt của sản phẩm thủ công mỹ nghệ;
là người giữ bí quyết của nghề, gắn bó lâu năm và hết lòng sống chết vì nghề.
Tuy nhiên, hiện nay nghệ nhân làng nghề chưa được đối xử đúng mức, chưa được
tôn vinh kịp thời và chưa nhận được sự đãi ngộ tương xứng với công sức đóng góp
của họ. Để bảo đảm quyền lợi và tận dụng được hết tài năng của nghệ nhân làng
nghề, rất cần phải luật hoá các chế độ, chính sách dành cho họ; đa dạng hoá các
danh hiệu và kịp thời tôn vinh họ; khuyến khích và tạo điều kiện để họ đào tạo
đội ngũ kế cận cho các làng nghề truyền thống.
Cho tới nay vẫn chưa có định nghĩa chính xác và thống nhất về nghệ nhân
nói chung và nghệ nhân làng nghề truyền thống nói riêng. Theo cách hiểu dân
gian, nghệ nhân là những người giỏi nghề, có trình độ chuyên môn cao ở một lĩnh
vực nào đó (thường là các loại hình nghệ thuật, nghề
truyền thống,…). Khác với các nghề được đào tạo bài bản, nghệ nhân là những
người trưởng thành từ cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp, thông qua quá trình
tích luỹ kinh nghiệm và rèn luyện tay nghề. Họ là những người có năng khiếu
nghề nghiệp, có đôi tay khéo léo và có óc sáng tạo. Họ nắm giữ những bí quyết
làm nên sự tinh xảo, độc đáo của sản phẩm, thậm chí cả những bí quyết sống còn
của một nghề.
Đối với các làng nghề truyền thống, nghệ nhân thực sự là những “báu vật
nhân văn sống”.
1. Nghệ nhân làng nghề truyền
thống
– Những tài năng
1.1. Là
những người phát minh công
nghệ độc đáo, riêng có
Trong truyền thống, nghệ
nhân của các làng nghề đã từng làm chủ những công nghệ sản xuất hết sức tinh
xảo, đạt tới mức nghệ thuật cao. Ví như các nghệ nhân làng Vạn Phúc đã dệt được
lụa vân, là loại lụa có cả hoa nổi và hoa chìm. Hoa nổi trên mặt lụa thì bóng
mịn, còn hoa chìm thì phải soi lên ánh sáng mới thấy được những đường nét mềm
mại, phóng khoáng và lóng lánh, biến ảo lung linh tuỳ theo góc nhìn. Loại lụa
này vừa mềm vừa mịn, sờ mát tay không hề có gợn, mùa hè mặc thì thoáng mát, mà
mùa đông mặc thì không bị toát lạnh. Để dệt được loại vải này, không chỉ cần sự
khéo léo và tinh tế của đôi tay, mà phải dùng tới công nghệ dệt thủng để tạo
những nét vặn rất tinh vi mà khung dệt thường không thể dệt được. Công nghệ cao
cấp đó một thời gian dài đã thất truyền, sau này mới được nghệ nhân Triệu Văn
Mão của làng nghề khôi phục lại.
Những
nghệ nhân và thợ giỏi của các làng nghề ngày nay vẫn đang phát huy trí tuệ của
mình, phát minh những công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng
suất, mà lao động lại được giảm nhẹ. Ví như nghệ nhân Nguyễn Hữu Vụ ở làng chạm bạc Đồng
Xâm đã sáng tạo ra khuôn đúc bằng kim loại thay thế cho khuôn đất, nên khuôn
bền hơn và chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn. Hoặc nghệ nhân Nguyễn Thanh
Luân ở Làng thêu Văn Lâm đã phát minh ra chiếc bút vẽ mẫu bằng cách gắn một mô
tơ điện nhỏ vào chiếc bút bi. Khi vẽ, chiếc bút bi có thể chấm lỗ rất nhanh và
đều đặn, với độ sâu đồng đều, tạo những nét vẽ mượt mà và gọn gàng. Công nghệ
của ông đã được ứng dụng rộng rãi ở làng nghề, tạo điều kiện cho thợ vẽ mẫu
chạm được những hình vẽ đẹp với công suất cao hơn và đẹp hơn vẽ tay nhiều lần.
Ông Nguyễn Thanh Luân của làng thêu Văn Lâm
đang biểu diễn cách sử dụng
chiếc bút vẽ mẫu chạy điện do ông tự sáng chế (Ảnh:
Vân Chi)
Không chỉ vậy, ông còn
mày mò, trải nghiệm bao vất vả, tạo ra được loại vải mới để thể hiện những mẫu
thêu của mình: “Tôi nghĩ ra một loại vải mới. Lúc đầu vất vả lắm. Tôi phải lên
nhà máy dệt công nghiệp để gặp ông Hoàng Tùng Nguyên, lúc đó là giám đốc. Ông
ấy ủng hộ ngay và ông ấy dệt cho 3000 mét. Khi đem về tôi chế thử thì rất thành
công. Bà con lúc đầu bán một sản phẩm như thế được 300.000 đồng vào năm 1995” (Phỏng vấn ông Vũ Thanh Luân, Chủ tịch BCH
Làng thêu Văn Lâm, Xã Ninh Hải, Huyện Hoa Lư, Ninh Bình).
Ở làng gốm Bát Tràng,
Công ty Fomex (liên doanh với Đan
Mạch) tự chế được loại đất thay thế đất nhập từ Anh, sản xuất được những loại
gốm độc đáo như gốm sơn mài, gốm khảm trai, gốm gắn gỗ, và cả gốm bịt đồng...
Sản phẩm gốm gắn gỗ của Công ty liên doanh
Fomex,
Bát Tràng (Ảnh: Vân Chi)
Hoặc những người thợ
làm bánh đa nem làng Chều (Xã Nguyên Lý, Huyện Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam) đã sáng
tạo được những "công nghệ mới nhất thế giới" để sản xuất ra sản phẩm
với số lượng lớn. Đầu tiên đó chỉ là một cái máy phát điện nhỏ được thiết kế
thêm phần vi sóng để làm chín sản phẩm. Nhưng càng sản xuất, người làng Chều càng
cải tiến thêm từng bộ phận và đã đạt đến đỉnh cao, khi mà: “hiện tại ở Việt Nam
thì làng Chều là số một. Tất cả các khách sạn, nhà hàng đến quán vỉa hè đều đặt
hàng bánh đa nem ở đây. Mỗi năm, chúng tôi còn xuất khẩu lượng lớn bánh đa sang
nước ngoài. Thế giới rất mê bánh làng Chều"- theo lời ông Trần Quang Thao,
Phó Chủ tịch UBND Xã Nguyên Lý[7]
1.2. Là
những người tạo nên hồn cốt của sản phẩm, nắm giữ bí quyết nghề nghiệp
Trong truyền thống,
nghệ nhân là người quyết định tất cả mọi khía cạnh của sản phẩm, từ chọn nguyên
liệu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất/chế tác, đến mẫu mã. Ví dụ, trong nghề
chạm bạc của Đồng Xâm, tất cả các dụng cụ chạm bạc như bễ thổi, kéo cắt, kìm
vặn, búa đập, đục, bàn kéo sợi, đế gỗ, đe sắt, nồi đun... sẽ được chính tay
người thợ chế tạo ra. Bởi thế, sản phẩm làm ra từ mỗi thợ bạc sẽ có nét riêng
đặc trưng, giúp phân biệt được tay nghề cao hay thấp. Tiếp theo, trong quá
trình luyện bạc, chất liệu của nồi đun và nhiệt độ đóng vai trò hết sức quan
trọng, nên người thợ bạc bắt buộc phải có kinh nghiệm “nhìn lửa” để điều chỉnh.
Đây chính là nét biểu hiện trình độ điêu luyện của tay nghề của các nghệ nhân,
mà không thể máy móc nào đạt được.
Sản phẩm khung tranh chạm đồng của nghệ nhân
Nguyễn Hữu Vụ,
Làng Đồng Xâm (Ảnh: Vân Chi)
Thời nay, có những nghệ
nhân được học hành bài bản, kết hợp tài năng trời phú, sự tinh xảo của đôi tay
với kiến thức của nhà trường để gửi vào sản phẩm những sáng tạo độc đáo. Ví như
nghệ nhân Vũ Đức Thắng của Làng gốm Bát Tràng, trên nền những kiến thức học
được từ Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp, đã phát huy sức sáng tạo của mình,
làm chủ được kỹ thuật đắp nổi, khắc hoa văn trên gốm (còn gọi là ám hoạ)- các
kỹ thuật mà hiện nay chỉ duy nhất mình ông thực hiện được. Những bình hoa lớn
được trang trí bằng những hoạ tiết đắp nổi mềm mại và tinh xảo, được thực hiện
hoàn toàn thủ công một cách điêu luyện, tỉ mỉ từng li từng tí, chỉ một góc sản
phẩm vài chục cm2 mà có khi phải khổ công cả tháng trời. Không chỉ vậy, chúng
còn đòi hỏi một kỹ thuật nung gốm có tay nghề cao và kỳ công thì mới bảo đảm
chất lượng, giữ nguyên được các đường nét tinh tế của các hoạ tiết, làm cho sản
phẩm có hồn.
Bình gốm trang trí bằng kỹ thuật ám hoạ của
nghệ nhân Vũ Đức Thắng,
Làng gốm Bát Tràng (Ảnh: Vân Chi)
Có thể nói, những nghệ nhân là người nắm giữ những bí quyết riêng trong việc sáng
tạo những sản phẩm độc đáo; những kỹ năng thao tác và cả những điều tinh tế chỉ
có thể cảm nhận chứ khó phân tích bằng lời. Họ chính là người giữ nghề, bảo đảm
cho làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển.
Chính nhờ có tài năng và những bí
quyết công nghệ riêng rất đặc biệt như vậy, nên nhiều nghệ nhân làng nghề
truyền thống “độc quyền” được những mặt hàng chất lượng cao và độc đáo mà không
nơi nào khác có thể sản xuất được. Ví như: cùng là
sản phẩm đồ gỗ, nhưng những mặt hàng sập gụ, tủ chè thì không nơi nào có kỹ
thuật ghép mộng và những nét chạm trổ bay bổng, sống động tài tình như ở La
Xuyên; cũng là kỹ thuật sơn mài nhưng không làng nghề nào có được nước sơn vừa
đẹp vừa bền màu như ở Cát Đằng...
Không phải ngẫu nhiên
mà Unesco tặng cho các nghệ nhân danh xưng “Báu vật nhân văn sống”.
1.3. Là
những người sống chết vì nghề
Không chỉ tài hoa trong
tay nghề, những nghệ nhân làng nghề truyền thống còn là những người một lòng
sống chết vì nghề, quyết không để nghề bị mai một. Những khi gian khó, làng
nghề suy vi, chính họ là những người xoay kế này, tìm cách nọ, dồn công góp của,
cố sức khôi phục lại nghề. Ví như ở Làng lụa Vạn Phúc, nghệ
nhân Triệu Văn Mão đã
không cam lòng chấp nhận khi lụa vân thất truyền, nên đã đi khắp các miền, tìm
xin từng mảnh áo, chiếc khăn, từng miếng lụa vân cũ, thậm chí bỏ tiền mua lại;
rồi tìm đến nghệ nhân thiết kế mẫu có tay nghề nhất trong làng nhờ thiết kế lại
các mẫu lụa cũ và dệt thử không biết bao nhiêu lần... Gian truân qua nhiều năm,
ông đã lần lượt phục chế thành công các loại lụa như lụa sa trơn, lụa xuyến 7,
lụa quế trơn, lụa vân… để rồi không bán được vì nó quá xa lạ với người tiêu
dùng lúc đó. Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng ông không nản. Và cuối cùng ông
đã thành công, mặc dù: "Từ khi sản xuất được lụa cổ tới khi được khách
hàng biết đến phải mất cả mấy năm trời"[5].
Một sản phẩm lụa với những hoa văn tinh xảo
được sản xuất tại xưởng dệt
của nghệ nhân Triệu Văn Mão, Làng Vạn Phúc (Ảnh:
Vân Chi)
Khi khảo sát các làng nghề truyền
thống, chúng tôi có dịp được tiếp xúc với những nghệ nhân hết sức tâm huyết với
nghề.
Tại làng tranh Đông Hồ, nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế tuy đã ngoài 70 tuổi nhưng hàng ngày vẫn đến xưởng tranh của
mình dù đã có con trai quản lý công việc. Trong khuôn viên xưởng vẫn có những bao
tải đầy vỏ điệp và chiếc cối giã vỏ điệp để làm giấy vẽ; những dãy chum sành
ngâm các loại hoa-lá-rễ cây để chế biến màu vẽ từ thiên nhiên; những người thợ
vẫn hàng ngày quét bột điệp lên giấy dó, cắm cúi chạm khắc những bản mẫu in...
Căn nhà riêng của gia đình ông có treo bức ảnh lớn vẽ sơ đồ dự án phát triển
doanh nghiệp, thể hiện ước mơ của ông sẽ phát triển theo hướng kết hợp làng
nghề với du lịch và giáo dục truyền thống.
Công đoạn quét bột hồ điệp lên giấy dó tại xưởng in của nghệ nhân
Nguyễn Đăng
Chế, làng tranh Đông Hồ (Ảnh: Vân Chi)
Cũng tại Làng tranh Đông Hồ, dù chỉ còn hai gia đình làm tranh, nhưng
nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam vẫn quyết định đầu tư phát triển nghề truyền thống. Dù
có sáng tạo những mẫu in mới phù hợp với nhu cầu của thị trường, ông vẫn quyết
tâm gìn giữ các bản khắc tranh cổ. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm đồ
cổ hỏi mua với giá rất cao, nhưng ông nhất định không bán, bởi ông cho rằng đây
là tinh hoa văn hóa, là hồn cốt để tạo nên những tác phẩm tranh dân gian Đông
Hồ truyền thống. Ông hiểu mỗi bản khắc đều có giá trị và ý nghĩa khác nhau, bán
đi sẽ mất tất cả, nên “bằng mọi giá tôi sẽ giữ lại, để sau này cho con cháu sẽ
tiếp tục nghề của tôi và cha
ông đã tạo dựng nên".
Bức trạnh Lợn trên giấy điệp (thân lợn được phết điệp trắng lấp lánh)
của nghệ
nhân Nguyễn Hữu Sam, Làng tranh Đông Hồ (Ảnh: Vân Chi)
Tại làng chạm bạc Đồng Xâm, nghệ nhân Nguyễn Hữu Vụ ngoài 80 tuổi, ngồi
gần 2 tiếng đồng hồ, say mê nói chuyện nghề, chuyện làng. Ông giới thiệu những
khung tranh ông chạm; giải thích về nét ve, cách sửa ve, kỹ thuật chạm bong... Và
còn rất nhiều nghệ nhân khác tương tự.
Ở những con người đáng kính này toát lên sự đam mê hiếm có đối với nghề
của làng mình. Đó là những người đã gắn bó máu thịt với nghề, sống chết vì nó
nhiều chục năm, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể vì nghề.
2. Những bất cập trong chính sách đối với nghệ nhân
làng nghề truyền thống
Các nghệ nhân là báu
vật của các làng nghề. Vậy nhưng việc đãi ngộ đối với họ chưa được tương xứng,
cụ thể là việc công nhận và phong tặng danh hiệu nghệ nhân chưa được thực hiện
tốt. Rất nhiều nghệ nhân tới già, thậm chí đến lúc mất, vẫn chưa được công nhận.
Khảo sát tại Làng chạm
bạc Đồng Xâm, khi được hỏi về 6 thợ cả danh tiếng của làng, nghệ nhân Nguyễn
Hữu Vụ cho biết là các cụ đều đã mất hết, chỉ còn lại một người nữa và cụ,
nhưng ngoài cụ ra thì chưa ai được phong danh hiệu nghệ nhân (Phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Vụ, Nghệ nhân chạm
bạc Đồng Xâm).
Những bất cập trong
phong tặng danh hiệu và tôn vinh nghệ nhân thể hiện ở những khía cạnh sau:
2.1.
Sự phức tạp trong quy trình xét tặng danh hiệu nghệ nhân
Về việc phong tặng danh
hiệu nghệ nhân, ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch
Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, đã bày tỏ quan điểm: “Bây giờ mình tôn vinh
nghệ nhân chậm quá. Đến khi được tôn vinh thì họ sắp mất mất rồi. Lớp con cháu
họ cũng đã 40- 50 tuổi rồi mà không ai được phong gì cả” (Phỏng vấn ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề
Việt Nam).
Một chủ doanh nghiệp ở
La Xuyên tâm sự: “Ông nội tôi cũng đang làm mấy thứ để được công nhận là nghệ
nhân đấy, nhưng kể cũng hơi khó”. (Phỏng
vấn chủ doanh nghiệp Hiền Oanh, làng mộc La Xuyên, Ý Yên, Nam Định). Cháu
nội đã là chủ một doanh nghiệp, nhưng ông nội vẫn còn phải loay hoay “làm mấy
thứ” với hy vọng được xét công nhận là nghệ nhân.
Sở dĩ có tình trạng như
vậy là bởi:
Thứ nhất: Để trở thành
nghệ nhân, chặng đường mà người thợ phải đi qua không hề ngắn ngủi và dễ dàng.
Trao đổi với chúng tôi, nghệ nhân Vũ Đức Thắng ở Làng gốm Bát Tràng cho biết,
chặng đường đó phải mất khoảng 30 năm, với “quy trình”: Làm nghề, sống được
bằng nghề, rồi mới thăng hoa, sáng tạo ra những giá trị, những tác phẩm được xã
hội thừa nhận (Phỏng vấn nghệ nhân Vũ Đức
Thắng, Làng gốm Bát Tràng).
Thứ hai: “Muốn là nghệ
nhân thì phải có sản phẩm đi triển lãm. Nhưng có phải ai cũng đi đâu. Chỉ ai đi
mới được phong” (Phỏng vấn ông Đỗ Văn
Soạn, Thủ từ Đền thờ Tổ nghề Làng Vạn Phúc). Phải có sản phẩm triển lãm mới
được xét phong, nhưng không phải ai cũng đủ điều kiện mang những bộ sản phẩm
độc đáo của mình đi triển lãm, bởi lẽ nó tốn kém không chỉ công sức mà cả tiền
bạc. Theo tâm sự của nghệ nhân Nguyễn Văn Ngoan, Làng Đồng Xâm, thì số tiền
thưởng 50 triệu đồng từ các nguồn mà ông nhận được khi được phong danh hiệu, đã
không đủ bù đắp chi phí cho những sản phẩm ông đã làm để tham dự triển lãm. Vì
thế, số nghệ nhân hiện nay tại các làng nghề truyền thống hoàn toàn chưa nhiều.
Thứ ba, việc phong tặng
danh hiệu thường phức tạp và chưa kịp thời, nên có trường hợp khi được phong
thì nghệ nhân đã già và lẫn, không còn phát huy được vai trò của mình nữa. Điều
này cho thấy chúng ta chẳng những chưa quan tâm đầy đủ tới đội ngũ nghệ nhân,
mà còn đang bỏ phí lực lượng “báu vật nhân văn sống”. Hệ lụy của vấn đề không
chỉ là làm phai nhạt đi tinh hoa, cốt cách của sản phẩm thủ công truyền thống,
mà còn làm cho làng nghề mất dần thương hiệu do chất lượng sản phẩm đi xuống.
Bất cập không chỉ có
vậy. Theo quy định, sau khi được phong tặng, nghệ nhân sẽ được tham dự các
lớp tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm và dự các hội chợ miễn phí. Đồng thời, họ
cũng có nghĩa vụ đào tạo và phát triển nghề truyền thống tại địa phương. Tuy
nhiên, những nghệ nhân hiếm hoi sau khi được phong tặng danh hiệu xong, thì hầu
như không nhận được sự quan tâm nào của bất cứ cơ quan nào. Như lời ông Nguyễn
Thư Viện, một nghệ nhân mộc ở Làng Chàng Sơn,
Huyện Thạch Thất, Hà Nội, thì ông “thực sự không biết và cũng chưa từng nhận
được một chế độ hay lợi ích gì cả”[3].
1.2. Sự thiếu chặt chẽ trong công tác phong tặng danh hiệu nghệ nhân
Tuy có hiện tượng thiếu
quan tâm tới nghệ nhân như đã nêu, nhưng trong việc phong tặng danh hiệu này
lại xảy ra một bất cập: Trong số những người được phong tặng danh hiệu nghệ
nhân lại có những người chưa xứng đáng. Theo lời nghệ nhân Nguyễn Hữu Vụ, thì:
“Úi giời, cứ thế là phong. Làng tôi có mấy nghệ nhân đó. Thực tế phải có tay
nghề thì mới làm nghệ nhân được chứ, nhưng nhiều ông không có tay nghề cũng
được phong là nghệ nhân đấy” (Phỏng vấn
ông Nguyễn Hữu Vụ, Nghệ nhân chạm bạc Đồng Xâm). Đó là trường hợp những người
tay nghề chưa giỏi, đã mượn sản phẩm của người khác đi triển lãm, rồi được
phong nghệ nhân.
Có tình trạng đó là do
chưa có sự thống nhất và quản lý sát sao của các cơ quan có thẩm quyền, nên
việc cấp chứng chỉ cho các nghệ nhân làng nghề đang bị lạm dụng. Nhiều đơn vị,
tổ chức xã hội nghề nghiệp tự đứng ra phong tặng các danh hiệu như: Nghệ nhân
làng nghề, nghệ nhân quốc gia… Việc thẩm định đối với không ít danh hiệu còn
khá sơ sài, có dấu hiệu thương mại hóa danh hiệu. Việc phong tặng không đúng
quy trình, mạnh ai nấy làm này đã mang lại hậu quả là, trong khi rất nhiều
người xứng đáng chưa hề được cơ quan nào phong danh hiệu, thì có những người sở
hữu một lúc vài ba danh hiệu. Ví dụ, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, Làng nghề mây
tre đan Phú Vinh, hiện đang có 3 chứng nhận nghệ nhân của 3 đơn vị là: UBND
tỉnh Hà Tây cũ, Hội Dân gian Việt Nam và Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.
Còn một khía cạnh tiêu
cực khác là sự lợi dụng để làm tiền những ai muốn được vinh danh. Ví dụ, nghệ
nhân Nguyễn Hữu Thạo (TP. Hồ Chí Minh) đã được Hội Kim Hoàn đá quý Việt Nam đã chào
mời làm thủ tục phong danh hiệu nghệ nhân rất đơn giản với chi phí 22 triệu
đồng. Đến năm 2011, ông được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phong danh hiệu nghệ
nhân, không hề phải nộp tiền[4]. Nghệ nhân Trần Bá Năm của làng nghề khảm trai Chuyên
Mỹ, Hà Nội cũng được một cơ quan mời chào tham gia chương trình tôn vinh nghề
gia truyền và nghệ nhân với mức phí 12 triệu đồng[3]. Trong khi đó, ông Lưu Duy Dần cho biết: "Khi
chúng tôi phong danh cho họ, họ không phải đóng góp gì[4].
Rõ ràng, việc phong
tặng danh hiệu cao quý này đang còn tồn tại nhiều bất cập và đang bị một số tổ
chức, cá nhân lợi dụng để trục lợi.
3. Giải pháp phát
huy vai trò của nghệ nhân làng nghề truyền thống
Rõ ràng, đang rất cần
một sự quan tâm thực sự tới đội ngũ nghệ nhân để thể hiện sự tri ân đối với những
đóng góp, cống hiến của họ cho làng nghề; đồng thời cũng để phát huy vai trò
của họ, để những tinh hoa văn hoá chắt lọc từ bao đời mà họ đang nắm giữ không
bị mai một và thất truyền. Để làm điều đó, cần thực hiện tốt một số việc sau:
3.1. Luật
hoá tiêu chuẩn, quy trình phong danh hiệu
Những lộn xộn và bất
cập không đáng có nêu trên chính là hệ quả của tình trạng chưa được luật hoá
đối với hoạt động này. Cho tới tận bây giờ (tháng 5/2014) Chính phủ mới đang
xin ý kiến các nhà quản lý, các nhà khoa học... đóng góp hoàn thiện dự thảo lần
5 của Nghị định “Quy định đối tượng,
tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ
nhân ưu tú” thuộc lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ”. Việc làm này tuy chậm trễ,
nhưng dẫu sao cũng đã thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của chúng ta về
việc tôn vinh và đãi ngộ nghệ nhân làng nghề.
Theo dự thảo này, việc
xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” thuộc lĩnh vực nghề
thủ công mỹ nghệ (nghĩa là các nghệ nhân làng nghề) sẽ được thực hiện 3 năm một
lần vào dịp Quốc khánh 2/9, từ danh sách đề cử của các địa phương. Các nghệ nhân
được phong danh hiệu Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú, ngoài các quyền theo quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, sẽ được hưởng bảo hiểm y tế, trợ cấp khó khăn, được
tổ chức dạy nghề thu học phí, được hỗ trợ nghiên cứu và một số ưu tiên khác. Đồng
thời, các nghệ nhân có nghĩa vụ gìn giữ, phát triển nghề và thương hiệu nghề
của mình; tích cực truyền nghề,
dạy nghề, phổ biến kinh nghiệm và bí quyết nghề; tiết kiệm nguyên liệu, tài
nguyên và bảo vệ môi trường[1, tr. 2].
Hy vọng, khi nghị định này
được ban hành, sẽ là căn cứ pháp lý để thiết lập một quy trình xét tặng danh
hiệu một cách hợp lý, khoa học và chuyên nghiệp, khắc phục những bất cập đã
nêu.
3.2. Đa
dạng hoá danh hiệu và phong tặng kịp thời
Như đã phân tích, tiêu
chuẩn cũng như quy trình và thủ tục phong tặng danh hiệu nghệ nhân còn phức tạp
và tốn kém. Nên chăng cải tiến thủ tục xét tặng danh hiệu này?
Thay vì yêu cầu các ứng viên mang sản phẩm tới trưng bày ở các triển lãm, hãy
lập các hội đồng và định kỳ về các làng nghề, tận mắt thẩm định và chấm điểm
các sản phẩm của họ. Chi phí cho hội đồng do nhà nước chi trả.
Việc phong danh hiệu
nghệ nhân làng nghề cấp nhà nước sẽ được thực hiện 3 năm một lần, nên cần đa dạng hoá danh hiệu nghệ nhân theo các cấp.
Ngoài danh hiệu nghệ nhân cấp quốc gia, có thể có những danh hiệu của các cấp
thấp hơn, như cấp Hiệp hội (hiện đã có) cấp Bộ (đã có ở một số Bộ) và cấp địa
phương, thậm chí cấp làng. Ví dụ Làng lụa Vạn Phúc đã có sáng kiến xác nhận tay
nghề cho những thợ giỏi bằng những giấy chứng nhận tay nghề. Qua trao đổi với
ông Đỗ Văn Soạn, Thủ từ Đền thờ Tổ nghề Làng, chúng tôi được ông cho biết: Tới
đây địa phương sẽ xác nhận cho những người thợ giỏi danh hiệu “Thợ giỏi dân
gian”, tức là thợ giỏi của làng, tương đương như “nghệ nhân cấp làng”.
Thợ giỏi dân gian, nghệ
nhân làng nghề... hoặc những danh hiệu cao quý tương tự, dẫu ở cấp nào, cũng
thể hiện sự tôn vinh và tri ân của làng nghề đối với công sức đóng góp của
những bàn tay vàng. Nó cũng là nguồn động viên lớn đối với người thợ, khiến họ tiếp
tục hết lòng hết sức vì nghề.
Tuy vậy, ở khía cạnh
ngược lại, cần chấn chỉnh sự thiếu chặt chẽ trong quản lý dẫn đến những tiêu
cực như chuyện vòi tiền các nghệ nhân khi đăng ký danh hiệu, hoặc hiện tượng
“bán danh hiệu” như đã đề cập ở trên.
3.3.
Có chế độ đãi ngộ xứng đáng
Đến khi Nghị định trên
của Chính phủ được ban hành, chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân cấp nhà nước sẽ
được luật hoá rõ ràng. Nhưng với những danh hiệu cấp thấp hơn thì chưa có văn
bản quy định, nên vẫn cần có những giải pháp để bảo đảm. Rất cần những việc làm
thiết thực để sự quan tâm được thể hiện ở những hành động cụ thể và thường
xuyên, vì hiện nay nghệ nhân khi được phong tặng danh hiệu, mới chỉ được nhận
tấm bằng chứng nhận và một khoản tiền theo chế độ (mà khoản tiền đó đôi khi rất
chậm đến tay nghệ nhân). Bởi vậy, các địa phương và các ban, ngành cần cụ thể
hoá mức đãi ngộ đối với nghệ nhân để đền đáp sự đóng góp của họ đối với nghề và
làng nghề. Đó đồng thời cũng là sự chăm sóc nhằm bảo đảm cuộc sống của họ khi
đã già yếu không còn khả năng lao động.
Tiếp theo, cần quy định
những chế độ về mặt tinh thần mà nghệ nhân được hưởng, ví dụ được vinh danh
trong những dịp lễ hội; được tham gia các cuộc hội thảo, các dự án và tham mưu
hoạch định chính sách phát triển nghề; được tham dự các hội chợ trong và ngoài
nước; được đăng tin buồn khi mất và được hưởng chế độ phúng viếng nào đó...
3.4.
Xây dựng và nhân rộng “mạng lưới” nghệ nhân
Tại Hàn Quốc, Bộ Văn
hoá nước này duy trì một chủ trương “nhân giống nghệ nhân” khá hiệu quả: Hàng
năm bộ này cấp một khoản tiền cho các nghệ nhân trên toàn quốc, gọi là “lương
đào tạo”, theo đó, mỗi nghệ nhân có trách nhiệm đào tạo 3 người có thể nối
nghiệp mình. Khoản tiền này sẽ được tăng, giảm, thậm chí cắt bỏ tùy theo kết
quả “đào tạo” của các nghệ nhân.
Ở Việt Nam cũng từng có
chủ trương tương tự, là đưa các nghệ nhân vào mạng lưới đào tạo nghề. Tuy nhiên
việc thực hiện chưa hiệu quả.
Mặc dù vậy, ở một số
làng nghề, việc khuyến khích và tạo điều kiện cho nghệ nhân truyền nghề cho lớp
trẻ vẫn được tiến hành. Ví dụ năm 2008, chính quyền Thị trấn Hương Canh đã phối
hợp với nghệ nhân gốm Nguyễn Thanh và 5 hộ khác để dạy nghề cho người dân. Nghệ
nhân Nguyễn Thanh đã hết lòng tận tuỵ với công việc và trong năm đó, ông đã
truyền nghề cho khoảng 50- 60 học viên. Thậm chí, khi học xong, học viên không
thể mở xưởng, ông Thanh đã nhận khoảng nửa số họ vào làm việc tại xưởng của
mình. Điều đó cho thấy, nếu có chính sách khuyến khích tốt, các nghệ nhân thực
sự sẽ là những người đào tạo đội ngũ thợ mới tiếp nối giữ các nghề truyền
thống. Và nếu mỗi nghệ nhân trong cuộc đời làm nghề của mình đào tạo được vài
chục thợ như vậy, chúng ta sẽ có một đội ngũ thợ nghề đủ để duy trì các nghề
truyền thống.
Có thể nói, nghệ nhân
làng nghề truyền thống thực sự là những báu vật nhân văn sống mà hiện nay chúng
ta chưa biết tận dụng để họ phát huy hết tiềm năng. Sự đãi ngộ và tôn vinh của
chúng ta với họ cũng chưa tương xứng, rất cần có sự quan tâm và những giải pháp
thiết thực để không bỏ phí nguồn báu vật này./.
Theo huc.edu.vn