Kiêu Kỵ (Gia Lâm, Hà Nội) hàng trăm năm nay nổi tiếng với những sản
phẩm dát vàng bạc. Ít ai biết rằng, để làm ra sản phẩm đó, những người
thợ thực hiện nghiêm túc đến mức không dám nói chuyện to. Dù trời nóng
bức thế nào, những người thợ cũng phải nung mình dưới lò lửa. Có khi
phải đóng kín cửa, buông màn xuống để dát, vì sợ lá vàng bạc mỏng sẽ
theo gió bay đi.
Nhưng giờ đây, làng nghề Kiêu Kỵ đang vắng dần tiếng đe búa, những người trẻ đang quay lưng lại với nghề...
Mắc màn để trại quỳ
Chúng tôi đến làng Kiêu Kỵ vào những ngày nắng nóng oi bức. Nhưng không
vì thế mà tiếng quai búa nơi đây giảm nhịp. Mọi người vẫn cần mẫn làm
việc. Tôi ngạc nhiên trước việc tiếp khách của chủ nhà. Dù rất nhiệt
tình tâm sự với chúng tôi về công việc dát vàng bạc của mình, nhưng dưới
cái nóng như thiêu đốt (370C) họ vẫn ung dung làm việc, chiếc quạt nan
phe phẩy cũng không có.
Cụ Nguyễn Thị Bính, 78 tuổi cho biết: "Từ nhỏ tôi đã đi theo bố mẹ học
nghề, cứ người lớn bảo gì làm theo cái đó, dần quen. Tôi có gần 70 năm
làm nghề, giờ công đoạn khó nhất thì tôi thường đứng ra đảm đương cho
con cháu. Làm nghề này công xá tính ra cũng ít, làm cả ngày cũng chỉ
được 40.000 - 50.000đ. Như thế không tương xứng với công sức bỏ ra,
nhưng tuổi tôi không đi làm đồng được, nhờ có nghề cũng có đồng ra đồng
vào".
Dù tuổi đã cao nhưng cụ Bính vẫn còn khoẻ và minh mẫn lạ thường. Vì thế,
cụ thường đảm nhiệm công đoạn cuối cùng của dát vàng bạc là trại quỳ
(bóc tách vàng bạc sau khi đã đánh thật mỏng) để đem bán cho khách.
Cụ Bính bảo, để ra được lá vàng bạc mỏng như lá lúa, người thợ phải làm
rất nhiều công đoạn. Nhưng công đoạn trại quỳ là khó nhất, những lá quỳ
được đem ra đánh với hàng nghìn nhịp búa đập xuống. Vì thế, khi lấy ra
chỉ cần đụng nhẹ cũng có thể bị rách. Nếu không làm tỉ mỉ, không có kinh
nghiệm bóc tách lá vàng bạc sẽ khó giữ được nguyên vẹn.
Thấy chúng tôi ngồi hỏi chuyện mồ hôi nhễ nhại, cụ Bính phân trần: "Các
anh thông cảm, ở trong phòng dát vàng bạc này phải thế đấy, vào mùa đông
còn đỡ chứ mùa này thì làm cực lắm. Dù nắng như thiêu đốt cũng phải cố
chịu đựng để làm. Quạt nan phe phẩy cũng không được dùng. Đến việc nói
chuyện cũng phải lẩm nhẩm trong miệng để gió không thổi vào lá vàng bạc.
Có hôm dông gió, phải đóng cửa lại, buông màn xuống để làm. Vì chỉ cần
cơn gió lùa vào thổi bay vài lá vàng bạc là coi như mất cả vốn lẫn lãi.
Chúng tôi ngồi làm từ nhỏ nên đã quen với việc nóng bức, dù nóng đến mấy
cũng chịu được".
|
Đánh quỳ đòi hỏi nhiều sức lực nhưng thu nhập thấp. |
40 công đoạn mới ra được sản phẩm
Nghệ nhân Lê Văn Hiệp cho biết: Nhìn những lá quỳ vàng bạc long lanh
nhiều người tưởng làm đơn giản, nhưng để có những sản phẩm đó, người thợ
phải thực hiện hơn 40 công đoạn. Sau khi chuẩn bị lá quỳ, nấu vàng bạc
cho vào khuôn kéo thành những lá mỏng, người thợ gói những lá vàng bạc
vào lá quỳ, để trên một tảng đá rồi dùng búa đập liên tục. Công đoạn này
quỳ được đánh liên tục, sức đập của búa làm cho lá vàng bạc mỏng dần.
Đánh quỳ phải đều, nếu không miếng vàng bạc sẽ không mỏng đều, khi bóc
dễ bị rách...
Sau đó người thợ gỡ những miếng vàng bạc để cắt chúng thành từng miếng
nhỏ. Mỗi dát vàng bạc có thể cắt nhỏ từ 9 - 12 miếng vuông nhỏ, có cạnh
chừng 1cm. Những lá vàng bạc cắt nhỏ lại được xếp xen kẽ vào giữa các lá
quỳ (gọi là long quỳ). Một long quỳ có từ 400 - 500 lá vàng bạc.
Anh Hiệp cho hay, tất cả các công đoạn đó là một dây chuyền, người thợ
phải phối hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn. Công đoạn nào cũng quan
trọng. Nhưng trại quỳ là giai đoạn khó nhất cần phải hết sức tỉ mẩn và
tinh tế mới làm được. Giai đoạn này sẽ quyết định chất lượng của vàng
dát có màu sáng hay xỉn.
Muốn có một sản phẩm hoàn chỉnh nhiều người phải kết hợp với nhau, riêng
khâu đánh quỳ thì cũng phải mất hàng tiếng đồng hồ. Đập hàng nghìn búa
mới xong được một quỳ vàng. Thế nhưng thu nhập lại thấp, một người thợ
làm cả ngày cũng chỉ được 100.000đ. Trong khi đó phải bỏ rất nhiều sức
lực để đánh quỳ, số tiền thu lại không tương xứng với công sức bỏ ra. Vì
thế, nên nhiều người bỏ nghề.
|
Người thợ nhiều kinh nghiệm mới đảm nhận được việc trại quỳ. |
Lớp trẻ quay lưng với nghề
Nghệ nhân Lê Văn Vòng, 57 tuổi cho biết: "Gia đình tôi đã có 9 đời làm
nghề dát vàng bạc, tôi mừng là đến nay nghề này vẫn còn. Đầu những năm
80 của thế kỷ trước tưởng chừng nghề truyền thống của cha ông bị biến
mất, nguồn nguyên liệu lúc đó khan hiếm. Một năm Nhà nước cung cấp cho
cả làng chỉ được một vài cân vàng bạc. Vì thế mà hầu như mọi người đều
bỏ nghề. May thay, cuối những năm 80 bước vào thời kỳ mở cửa, vàng bạc
được cung cấp nhiều hơn, làng nghề được hoạt động trở lại."
Ông Vòng tự hào bảo, nghề dát vàng bạc của Kiêu Kỵ là nghề độc nhất vô
nhị ở dải đất hình chữ S và hiếm có ở Đông Nam Á. Nghề này đã xuất hiện ở
đây nhiều thế kỷ. Khi nông nhàn có thể tận dụng sức lao động của mọi
người trong gia đình, các cháu nghỉ hè cũng tham gia dát bạc. Từ cụ già,
em nhỏ có thể làm kiếm thêm thu nhập. "Tôi vẫn nói vui với các cháu
rằng "doanh nghiệp" của bác tuyển dụng lao động từ 5 - 90 tuổi. Mẹ tôi
năm nay 92 tuổi vẫn vừa làm, vừa truyền nghề cho con cháu. Tôi rất vui
khi sản phẩm của làng nghề đã góp mặt trong các khu tưởng niệm lớn trên
cả nước như Cung đình Huế, Đền Hùng", ông Vòng cho biết.
Dù làng nghề hiện nay vẫn được duy trì, nhưng ông Vòng không khỏi lo
lắng về tương lai của làng nghề: "Giờ lớp trẻ trong làng người thì đi
làm xa, nhiều người ở làng chuyển sang nghề may cặp da thu nhập gấp 3
lần so với nghề truyền thống. Chỉ còn ít người lứa tuổi như tôi còn làm
nghề, những người trẻ tuổi không còn mặn mà với nghề truyền thống, không
biết tương lai làng nghề sẽ về đâu...", ông Vòng than thở.
|
Nghệ nhân Vòng lo lắng vì lớp trẻ quay lưng với nghề. |
"8
năm nay 12ha đất chuyên canh làm lúa, đã được giải phóng mặt bằng để
làm dự án phát triển làng nghề nhưng giờ chỉ để cỏ hoang mọc. Chúng tôi
đã phản ánh nhiều lên chính quyền xã, nhưng chờ mỏi cổ mà vẫn chưa có
hồi âm". Nghệ nhân Lê Văn Vòng
"Làng Kiêu Kỵ có gần 3.000 nhân khẩu, hơn 400 hộ. Hiện làng
Kiêu Kỵ có nghề dát vàng bạc và sản xuất cặp da. Từ cuối năm ngoái,
kinh tế khó khăn, nghề dát vàng, bạc rơi vào khủng hoảng. Giờ còn 51 hộ
làm nghề. Sản phẩm làm ra không bán được nên nhiều hộ bỏ nghề. Hiện
tại các gia đình làm cầm chừng để giữ nghề. Giờ mọi người trong làng
chú trọng nghề làm cặp da hơn nghề truyền thống. Vì nghề này cho thu
nhập cao hơn". Bà Vũ Thị Thanh Hoa (Chủ tịch UBND xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội)
|
Theo kienthuc.net