Những cái chết được báo trước
Trong
tài liệu lưu trữ của các công ty Đông Ấn châu Âu, vào khoảng thế kỉ
XVII, gốm sứ và tơ lụa là hai mặt hàng thủ công chủ lực của Việt Nam
tham gia vào quá trình buôn bán, xuất nhập khẩu trong hệ thống thương
mại khu vực1. Các làng nghề như Thổ Hà (Bắc Giang), Phù Lãng
(Bắc Ninh), Bát Tràng (Gia Lâm- Hà Nội), Vạn Phúc (Hà Đông- Hà Nội)…
được coi là những làng nghề thủ công truyền thống lâu đời của người
Việt. Thế nhưng cho đến nay, sau nhiều thế kỷ hoạt động, nhiều làng nghề
đã sa sút, “chết dần”, thậm chí “chết hẳn” theo đúng nghĩa.
Điểm
lại những làng nghề gốm cổ xưa nhất của người Việt thì làng gốm Thổ Hà
đã “chết” ngay từ những năm 1980; làng gốm Phù Lãng “ngắc ngoải” với hai
mặt hàng tiểu sành và chậu hoa lá lật; làng Bát Tràng “hỗn loạn” về mặt
thẩm mĩ; còn làng lụa Vạn Phúc thì nhiều gia đình đã bỏ nghề do không
cạnh tranh được với lụa Trung Quốc…
Chưa
nói đến tầm vĩ mô, nguyên nhân nội tại khiến các làng nghề thủ công
truyền thống của Việt Nam chết dần là do không có mẫu mã thiết kế phù
hợp.
Trong khi design đang
được coi là hoạt động công nghiệp sáng tạo thì cách làm phổ biến của các
làng nghề hiện nay ở nước ta là lên mạng ăn cắp mẫu mã hoặc sao chép y
hệt những mẫu mã của cổ nhân hay mẫu mã những mặt hàng gia công cho các
thương hiệu nước ngoài.
Trong bức tranh màu xám của làng
nghề thủ công hiện nay, có một điểm sáng, theo tôi biết, là ở Bát Tràng,
vài ba gia đình đã cho con em mình đi học design ở nước ngoài, thậm chí
tự bỏ tiền đi học ở làng gốm đắt nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhà
nước cũng cần có những chính sách thiết thực hỗ trợ các làng nghề, tạo
điều kiện để hai - ba năm tổ chức được một Festival làng nghề truyền
thống quy mô quốc gia.
|
Vào những năm 1980, người Thái Lan đã sang đặt hàng Bát Tràng và đóng
mác sản phẩm với dòng chữ Made in Thailand. Gần đây thì người Nhật, hoặc
nhãn hiệu IKEA (Thụy Điển) vẫn tìm đến Bát Tràng như một địa chỉ gia
công những mặt hàng của họ. Điều đó có nghĩa là, họ vẫn nhìn thấy giá
trị ở những làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam, nhưng đó chỉ
là những đơn hàng ngắn hạn chứ không phải là kế sách lâu dài.
Nếu
không bỏ chất xám để đầu tư nghiên cứu design, coi design như một phần
tất yếu trong sự tồn vong của làng nghề, thì làng nghề “chết” là điều dễ
hiểu. Chỉ chăm chăm sao chép cổ nhân thì dù dùng nguyên liệu và kỹ
thuật giống hệt, cũng không thể tạo ra một sản phẩm mang đúng tinh thần
của cổ nhân, chưa kể sản phẩm anh làm ra còn vô giá trị về mặt lịch sử.
Chỉ biết ăn cắp mẫu mã từ các nguồn sách báo, internet… rồi bắt chước
thì sản phẩm của anh không thể có được phong cách, dấu ấn cá nhân, thậm
chí chúng có thể trở thành hổ lốn, không thể “tiêu hóa” về thẩm mĩ do
được tạo ra bởi ý đồ chắp vá. Tất cả những con đường ngắn hạn đều dẫn
đến “cái chết” được báo trước.
Đưa design vào làng nghề
Không
có cách nào đưa design vào làng nghề thủ công ngoại trừ con đường giáo
dục. Vì là một ngành tương đối mới ở Việt Nam nên nếu có điều kiện đi
học ở nước ngoài, người học cần tận dụng cơ hội, học quan niệm đúng về
design, học kiến thức bao quát và toàn diện về lĩnh vực này.
Đối
với giáo dục trong nước, để tạo ra một đội ngũ làm design chuyên
nghiệp, có kiến thức, có văn hóa thì ngay trong trường học, học design
không phải chỉ là chăm chăm học sử dụng công cụ thiết kế đồ họa mà phải
học những điều rất cơ bản như hình họa, bố cục, màu sắc, “học về lịch sử
design, tư tưởng design, nguyên lý design, thậm chí triết học design”
như họa sĩ Phan Cẩm Thượng từng nói. Đặc biệt, khi đi vào chuyên ngành,
cần nghiên cứu rất sâu về chất liệu mình dự định thiết kế sau đó đi thực
tập, thực tế ở làng nghề.
Đối
với những làng nghề, cách học tốt nhất trong khi Việt Nam chưa có bảo
tàng riêng về đồ thủ công truyền thống là đến xem các bảo tàng như Bảo
tàng Dân tộc học, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Lịch sử.
Áp dụng công nghệ đến đâu?
Trong
đời sống hậu công nghiệp, sản phẩm sản xuất hàng loạt bằng máy móc trở
nên tiện lợi và phổ biến, các sản phẩm làm bằng tay vì vậy khan hiếm và
đắt đỏ hơn. Trong khi thế giới khổ sở vì công lao động đắt đỏ thì các
nghề thủ công của Việt Nam sử dụng sự khéo léo của bàn tay mà không đòi
cái giá ngất ngưởng lại không có đường sống. Quả là một nghịch lý!
Chính
sản phẩm làm bằng tay, chứ không phải sản phẩm công nghiệp đang trở
thành life style, bởi giá trị độc bản của nó. Bởi vậy, việc ứng dụng
công nghệ trong sản xuất các sản phẩm thủ công, nếu có, chỉ nên áp dụng
cho khâu chuẩn bị nguyên liệu. Chẳng hạn, có thể sử dụng máy làm sạch
tạp chất của đất để dễ dàng làm đồ tinh chế kích thước nhỏ, giảm hư hao
sau khi nung gốm. Sử dụng máy ngoáy men để men gốm được đều, sử dụng máy
phun để quá trình nung gốm không bị co men. Hoặc có thể sử dụng chất
hóa học để nhúng chỉ thêu nhằm tránh phai màu khi giặt sản phẩm thêu.
Những khâu khác nên làm bằng tay để giữ tính độc bản cũng như sự tự
nhiên của sản phẩm.
Đi quanh
những phố nhiều khách du lịch của Hà Nội như Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng
Trống, Lý Quốc Sư, Nhà Thờ, Nhà Chung… chúng ta vẫn thấy có những cửa
hàng bán đồ lưu niệm, đồ thủ công đông khách, tuổi đời mấy chục năm mà
chủ là người… nước ngoài. Họ tận dụng hầu như toàn bộ - nguyên liệu,
nhân công, tay nghề người Việt - để tạo một sản phẩm thủ công, cái họ
thêm vào chỉ là mẫu mã. Việc những người nước ngoài kinh doanh thành
công hàng thủ công Việt Nam trên chính đất Việt cho thấy, không phải xã
hội hiện đại không có nhu cầu sử dụng sản phẩm thủ công mà là những sản
phẩm thủ công như thế nào thì mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
con người, và người Việt cần nhìn nhận vấn đề này ra sao mà thôi.
Theo tiasang.com.vn