Mai một nghề thủ công truyền thống
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng (tác giả các cuốn sách Di sản thủ công Mỹ nghệ Việt Nam; Tinh hoa nghề nghiệp cha ông; Đúc đồng ngũ xã),
nghề và làng nghề thủ công gắn liền với lịch sử hình thành và phát
triển của đất nước, góp phần tạo nên tinh thần, cốt cách của người Việt.
Việt Nam có nền sản xuất chế tác truyền thống lâu đời, với các vật phẩm
đẹp có thể sánh với bất kỳ nền sản xuất truyền thống ở quốc gia nào.
Đồng bằng Bắc bộ tập trung dày đặc các làng nghề truyền thống, từ đó lan
tỏa xuống phía Nam. Có nghề phát triển hàng nghìn năm nay, có nghề mới
xuất hiện, cũng có nghề đã hoặc đang mất đi. Chẳng hạn, có thời kỳ, giấy
dó, giấy sắc được sản xuất nhiều. Hà Nội có làng giấy dó Yên Thái, giấy
sắc ở Nghĩa Đô; Bắc Ninh có làng giấy dó Phong Khê… Nguyên liệu làm
giấy từ vỏ cây dó mọc hoang dã ở vùng ven sông Đuống và sông Hồng. Ngày
nay, những làng nghề từng ở đỉnh cao huy hoàng gần như không còn. Làng
An Thái nhiều năm nay không có ai làm giấy dó, dù vẫn còn đội ngũ làm
nghề. Ở Bắc Ninh chỉ còn 1 gia đình làm giấy dó. Nghề làm quạt giấy cũng
mai một, hiện chủ yếu chuyển sang làm quạt nghệ thuật. Nghề khắc mộc
bản cũng tương tự, còn chăng là gia đình làm nghề khắc dấu ở phố cổ Hà
Nội...
Tình
trạng trên là do nguồn nguyên liệu đã bị thu hẹp, đặc biệt là nhu cầu
sử dụng của xã hội không còn, hoặc ít. Từng tham gia chương trình Hỗ trợ
phát triển làng nghề của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tại
Việt Nam, họa sĩ Nguyên Hưng cho rằng, mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam ít cải tiến và sáng tạo. Dạo qua các hội chợ trong nước hay
quốc tế, hàng Việt Nam hao hao nhau, ít sản phẩm riêng biệt, từ đồ mây
tre đan, đồ gốm… Trong khi ở các quốc gia khác, mẫu mã, chủng loại sản
phẩm thay đổi từng ngày. Một tồn tại khác là khi đặt làm hàng mẫu thì
đạt, nhưng khi đặt hàng số lượng lớn thì sản phẩm lại hoàn toàn khác,
mẫu mã, chất lượng không đáp ứng yêu cầu. Họa sĩ Nguyên Hưng bi quan:
việc phát triển làng nghề có thể nói là vô vọng. Bao năm qua, đã có
nhiều tiếng kêu cứu từ các làng nghề thủ công mỹ nghệ, từ các nghệ nhân
cả đời gắn bó với nghề, và cũng đã có nhiều cố gắng hỗ trợ từ nhiều phía
- từ chính quyền đến các tổ chức hữu quan - nhưng xem ra, tình hình
chẳng khá hơn... Những năm gần đây, JICA giúp Việt Nam nghiên cứu bảo
tồn thông tin về nghề và làng nghề thay vì hỗ trợ phát triển làng nghề
như trước. Khi nghề và kỹ thuật nghề thủ công mai một là mất đi một phần
văn hóa Việt Nam.
Quy hoạch và bảo tồn, phát triển làng nghề
Họa
sĩ Nguyên Hưng cho biết, nghề và làng nghề thủ công được xem là thành
phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong những cơ sở bảo
đảm sự phát triển ổn định của kinh tế nông thôn và kinh tế du lịch...;
đặc biệt, nó là thành phần quan trọng trong việc duy trì và phát triển
nền văn minh thị giác, tạo nên môi trường nuôi dưỡng sự hòa hợp tinh
thần cộng đồng... Bởi vậy, nhiều quốc gia đã chú trọng bảo tồn và phát
triển nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ. Ở Nhật Bản, Trung tâm Nghệ
thuật thị giác Osaka có một ngân hàng dữ liệu chuyên ngành, giúp người
sáng tạo tiếp cận từ loại hình, hình thức, chất liệu, kỹ thuật… các nghề
thủ công. Trung tâm cũng là đơn vị kết nối người sáng tạo với người sản
xuất, người sản xuất với người cung ứng kỹ thuật và nhà tư vấn thị
trường; tư vấn hỗ trợ sáng tác, sản xuất và truyền thông; đồng thời xác
định và quảng bá các giá trị tiêu biểu nhất... từ đó hỗ trợ, khuyến
khích nghề thủ công phát triển. Nhiều quốc gia đã có sáng kiến giúp nghề
và làng nghề thủ công mỹ nghệ phát triển. Như Thái Lan có làng Bo Sang ở
Chiang Mai làm ô từ lâu đời. Lễ hội ô Bo Sang thu hút khoảng 1 triệu
khách du lịch mỗi năm nhờ các hoạt động gắn với sản phẩm truyền thống
này. Hay lễ hội lồng đèn Hàn Quốc vào Lễ Phật Đản hàng năm, giúp bảo
tồn, quảng bá lồng đèn truyền thống, giấy truyền thống của Hàn Quốc,
đồng thời thu hút khách du lịch…
Theo
kinh nghiệm tại nhiều quốc gia, Việt Nam cần nhận thức rõ vai trò và vị
trí của thủ công mỹ nghệ, từ đó quy hoạch, hình thành các nguyên tắc và
giải pháp thích ứng để bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề. Theo nhà
nghiên cứu Bùi Văn Vượng, những năm gần đây, quy hoạch làng nghề đã được
xây dựng, nhưng chỉ là quy hoạch theo loại làng nghề, chưa có quy hoạch
tổng thể, quy hoạch vùng nguyên liệu chậm. Cần cách tiếp cận mới từ góc
độ thị trường, trong đó áp dụng yếu tố PR - marketing vào quy trình
nghiên cứu thị trường, phát triển mẫu mã, xây dựng thương hiệu, quy
hoạch… Họa sĩ Nguyên Hưng khẳng định: phát triển nghề và làng nghề gắn
với trách nhiệm của nhiều cơ quan quản lý nhưng sự phối hợp này cần qua
một tổ chức trung gian. Bên cạnh đó, các địa phương khi phát triển du
lịch, cần nhận thấy nghề và làng nghề thủ công góp phần quan trọng làm
nên hình ảnh địa phương, quyết định sự thành bại của một thị trường du
lịch, từ đó đầu tư để bảo tồn và phát triển nghề thủ công.
Theo daibieunhandan.vn