Làng Phong Thành xưa (nay là xóm
13, xã Nghi Phong - Nghi Lộc) từ lâu đã nổi tiếng với nghề đan thuyền
thúng. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nghề của làng vẫn đang
được duy trì. Tuy trong làng hiện chỉ còn 5 hộ theo nghề, nhưng vẫn luôn
là cơ sở chính cung cấp thuyền nan cho các làng chài ven biển trong
tỉnh và một số tỉnh lân cận
...
Theo những cụ cao niên trong làng, nghề
đan lát ở Nghi Phong đã xuất hiện cả mấy trăm năm trước. Người dân biết
đến cái nghề đan lát này là do tổ tiên bao đời truyền lại. Thuở xưa, nhà
nào cũng đan lát để bán kiếm thêm tiền mắm, muối và để làm đồ dùng sinh
hoạt hàng ngày. Riêng nghề đan thuyền thúng bắt đầu phổ biến từ những
năm 80 của thế kỷ trước, nhất là khoảng hơn 20 năm trở lại đây do nhu
cầu của nghề biển
. Ngoài công dụng vận chuyển người, thực phẩm và nhiên
liệu từ bờ ra tàu cho chuyến biển cũng như chở sản phẩm từ tàu vào bến;
thuyền thúng ngày nay còn dùng phổ biến cho các nghề vây rút chì và câu
thúng
.
Hoàn thiện một chiếc thuyền thúng mất
khá nhiều thời gian, thợ lành nghề cũng phải từ 4 - 5 ngày mới hoàn
thành được 1 chiếc thuyền cỡ trung, còn thuyền cỡ lớn có đường kính vành
trên 2m phải mất 8 - 10 ngày công. Một chiếc thuyền khi hoàn thiện có
giá trung bình từ 1,5 triệu đến 3 triệu đồng, tùy thuộc vào tùy kích cỡ
;
trừ chi phí mua nguyên vật liệu, thu nhập mỗi chiếc thuyền được 1 - 1,3
triệu đồng... Mặc dù những năm gần đây, với sự xuất hiện của thuyền
nhựa các loại, nhưng thuyền thúng Nghi Phong với ưu điểm bền, nhẹ, cơ
động trên biển và giá thành lại rẻ hơn nên vẫn được nhiều ngư dân ưa
chuộng.
Dưới đây là một số hình ảnh của làng nghề thuyền thúng Phong Thành
|
Gần 50 năm gắn bó với nghề đan thuyền thúng, cái
dáng ngồi chẻ nan của ông NguyễnVăn Hoa - ở xóm Phong Thành vẫn không
thay đổi. Theo ông Hoa: Việc vót nan ngoài tay nghề, người thợ cần phải
có kinh nghiệm; như nan vót phải đều, thẳng, mềm ở ngoài và cứng dần vào
bên trong để dễ đan, nan sau khi vót xong phải phơi một ngày nắng cho
khô để tránh “co giãn” sau này.
|
|
Ở xóm Phong Thành, làm thuyền thúng cũng là nghề
truyền thống của gia đình anh Phạm Văn Hoa. 15 tuổi, anh Hoa đã thành
thạo việc trẻ nan, đan liếp và lấy tâm thúng…
|
|
Tùy vào độ thưa dày của lớp mê, người thợ sẽ chẻ
tre, lột lấy phần cật (lớp vỏ cứng ngoài cùng của thân tre), sau đó cạo
bỏ lớp vỏ xanh rồi đan thành mê. Mê được phơi nắng, phơi sương đến khi
chuyển sang màu vàng mới đưa vào tạo hình thúng.
|
|
Để tăng tuổi thọ, độ an toàn cho thuyền phải
dùng tre đặc, không non cũng không già, chỉ sử dụng từ nửa thân trở
xuống. Riêng tre làm vành thúng phải được lựa chọn lỹ lưỡng vì vành như
“xương sống” nâng đỡ và giữ cho thuyền thăng bằng.
|
|
Và để uốn vành thuyền thúng đòi hỏi người thợ
phải có sức khỏe, vì đây là công việc hoàn toàn thủ công, không có máy
móc phụ trợ.
|
|
Trước đây, người làm nghề phải đào khuôn đất để
bỏ mê vào, dùng chân dẫm đều khắp khuôn thành hình cái thúng. Nay người
thợ chỉ cần làm 4 cọc, sau đó đặt mê lên để tạo hình.
|
|
Theo anh Phạm Văn Hoa, khó nhất trong các công
đoạn làm thuyền thúng là công đoạn lận vành, bởi nó đòi hỏi sự chính xác
khi đo đường kính và độ cao theo kích thước khách hàng yêu cầu
.
|
|
Dùng cước chuyên dụng để cố định vành là công đoạn cuối cùng để hoàn thành một chiếc thuyền thúng
.
|
|
Theo những người thợ đan Nghi Phong, nếu được
bảo quản tốt tuổi thọ của thuyền thúng có thể lên đến hàng chục
năm
.Thuyền nan có ưu điểm là nhẹ, cơ động, chịu sóng và chống lật tốt
nên vẫn được nhiều ngư dân lựa chọn.
|
|
Tại hộ ông Nguyễn Văn Hoa, việc tiêu thụ sản phẩm không chỉ là ngư
dân các làng chài Nghi Thiết, Nghi Quang, Nghi Tiến (huyện Nghi Lộc)
; xã
Nghi Tân, Nghi Thuỷ (Thị xã Cửa Lò) mà đã mở rộng ra thị trường tỉnh
bạn như Thanh Hoá, Quảng Bình, Hà Tĩnh. Theo baonghean.vn
|