Năm
1602, dinh trấn Quảng Nam được lập tại Thanh Chiêm (nay là thôn
Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, Điện Bàn, Quảng Nam). Những cư dân
Thanh-Nghệ theo chúa Nguyễn làm nghề rèn phục vụ chiến tranh
được bố trí ngụ gần Dinh trấn. Từ đó, làng Chú tượng Phước
Kiều được lập. Cuối thế kỷ XVIII, quân Tây Sơn đánh ra, nhu cầu
sản xuất vũ khí tại chỗ, mới lập một làng đúc vũ khí mới,
cách Chú Tượng một con lạch ở phía nam, gọi là làng Tạc
tượng Đông Kiều. Năm 1832, vua Minh Mạng sát nhập hai làng, thành
làng Đúc đồng Phước Kiều.
Dưới triều Nguyễn, sản phẩm
Phước Kiều chủ yếu phục vụ sinh hoạt nghi lễ của quan lại và
Hành cung của Dinh trấn như nồi niêu, soong chảo, lư đèn, chiêng
khánh... Nhiều nghệ nhân được triều đình gọi ra Phú Xuân đúc
đỉnh, vạc, ấn tín. Một số được phong "Cửu phẩm đội trưởng".
Lúc này, nhiều vị được cử ra tiền cung Ái Tử (Quảng Trị) đúc
đỉnh, vạc. Ở đây, họ gặp đồng bào thiểu số Cam Lộ, mới học
cách làm cồng chiêng. Khi cửa khẩu Lao Bảo, cửa An Khê được
thông thương, mở ra một thị trường mới cho Phước Kiều. Từ đây,
cồng chiêng Phước Kiều được bán lên Tây Nguyên. Từ thời Quang
Trung đánh ra đến thời đánh Pháp, Mỹ, dân Phước Kiều nhiều
lần tản cư vào Tam Kỳ, sau năm 1975 lại trở về quê. Nhưng lúc
này, đồ đồng được coi là hàng xa xỉ phẩm, cấm sản xuất. Năm
1986, nghề đúc đồng Phước Kiều mới được phép sản xuất lại
nhưng, nạn chảy máu cồng chiêng Tây Nguyên diễn ra, làng nghề
tiếp tục thất bát.
Bây giờ, số nghệ nhân Phước Kiều đúc
được cồng chiêng chỉ còn 4 người là các ông Dương Quốc Thuần
(52 tuổi), Dương Ngọc Sang (76 tuổi), Dương Nhi (82 tuổi), Dương
Ngọc Tiễn (53 tuổi), cùng trú thôn Thanh Chiêm 1. Những người
này có cơ sở đúc đồng riêng, thuê nhân công và người làm công
nhưng trẻ nhất cũng đã 45 tuổi! Năm 2005, "Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên" được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại". Làng nghề phục hồi bằng việc
đúc cồng chiêng bán cho đồng bàoTây Nguyên. Thế nhưng, do hưng
phế quá lâu, còn quá ít người biết đúc cồng chiêng, mà lớp
trẻ thì không ai mặn mà. Năm 2011, UBND huyện Điện Bàn ra Quyết
định "Phê duyệt dự án đầu tư và phát triển làng nghề truyền
thống đúc đồng Phước Kiều gắn với du lịch", chính ông Tiễn
viết đề án. Từ đó, dù luôn là điểm đến của những ngày hội
văn hóa nhưng đến nay vẫn thưa vắng khách du lịch đến với Phước
Kiều.
|
Công nhân đang rót đồng vào khuôn. |
Thực
tế, để xúc tiến đề án, UBND tỉnh cũng đã đầu tư làm nhà
truyền thống, trùng tu nhà thờ tổ cửu tộc, hỗ trợ kinh phí
triển lãm hội chợ... Nhưng, theo ông Tiễn, việc đầu tư chưa có
chiều sâu. Cụ thể, những lớp tập huấn chưa tuyên truyền cho
người dân hiểu được lợi ích lâu dài của việc triển khai du
lịch cộng đồng, chưa hình thành được con người làm du lịch bài
bản, chưa tạo được sự đoàn kết giữa các hộ... Và đặc biệt,
làng nghề chưa có một danh xưng xứng đáng nào.
Ngày "Không
gian văn hóa công chiêng" nhận bằng từ UNESCO, ông Tiễn đi theo
đoàn Quảng Nam, mang theo một lược sử làng nghề dài 45 trang do
ông tự viết, rồi gửi cho Giáo sư Trần Văn Khê, ông Nguyễn Chí
Bền-nguyên Viện trưởng Viện Văn Hóa Nghệ Thuật... Ông biểu diễn
tại chỗ khâu thẩm âm, phản bác quan điểm cho rằng người sản
xuất không tự thẩm âm được. Bản thân ông cũng đã tham gia giảng
dạy lớp hướng dẫn thẩm âm cho các đồng bào thiểu số vào năm
2007, 2011... "Đúc cồng chiêng Tây Nguyên, ngoài Phước Kiều còn
có làng Bằng Châu ở Bình Định, cũng chung vấn nạn như Phước
Kiều. 20 năm nữa, khi 4 người biết đúc cồng chiêng còn lại ở
Phước Kiều qua đời, ai sẽ là người thay thế, rồi cồng chiêng
Tây Nguyên sẽ ra sao? Phước Kiều nằm trên tuyến hành lang du lịch
Hội An - Mỹ Sơn, rất thuận lợi triển khai du lịch và chỉ có
thể gắn với du lịch. Nên, các cấp ngành cần phải công nhận
làng nghề là di sản phi vật thể quốc gia, đồng thời, mở những
lớp đào tạo đúc đồng, du lịch một cách bài bản rồi kêu gọi
lớp trẻ tham gia. Có như vậy, làng nghề mới tồn tại được"-ông
Tiễn khẳng định.
Theo cadn.com.vn