Những người giữ nghề thuyền nan ở Nội Lễ.
Nghề đan thuyền nan Nội Lễ thuộc xã An Viên, huyện
Tiên Lữ (Hưng Yên) đã có từ lâu đời, một thời đã trở thành nghề mang lại
nguồn thu nhập ổn định cho người dân. Tuy nhiên, nghề này đang ngày
càng mai một đi và nguy cơ thất truyền là khó tránh khỏi.
|
Nghề làm thuyền nan đang ngày bị mai một. |
Nghề đan thuyền nan Nội Lễ có từ khi nào không mấy ai còn nhớ nữa.
Tuy nhiên cũng theo một số cụ già trong làng thì nghề đan thuyền ở đây
có liên quan đến truyền thuyết kể về tướng quân Trần Ứng Long đem quân
đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Trần Ứng Long đã hạ lênh cho quân vào rừng
chặt tre đan thuyền phỏng theo cách đan thúng. Nhờ có thuyền nan mà
quân của Trần Ứng Long đã phá tan được quân của Đỗ Cảnh Thạc, góp phần
làm thống nhất giang sơn. Người dân nơi đây tin rằng nghề bắt đầu có từ
khi đó và cũng tâm niệm rằng Trần Ứng Long chính là ông tổ của nghề đan
thuyền.
Nghề đan thuyền nan là một nghề truyền thống nhưng chỉ phát triển
dưới hình thức là một nghề phụ. Ngoài thời gian dành cho công việc đồng
áng, những lúc nông nhàn người dân mới tranh thủ làm những chiếc thuyền
nan. Trước đây, dân thôn Nội Lễ làm đủ mọi loại thuyền từ, có những
thuyền nhỏ dung để chở khi gặt lúa, hái sen… thuyền nan không chỉ phục
vụ trong làng mà còn được bán rộng ra các vùng lân cận. Nguyên liệu chủ
yếu là tre và nứa. Theo kinh nghiệm, tre làm cạp thuyền và thang thuyền
làn những cây tre đực, tức là những cây tre to, có ống dài. Còn tre dung
để uốn cong mũi thuyền hay phủ đầu thì dung tre cái là tốt nhất vì loại
tre này có độ mềm, dẻo nhất định. Kích cỡ của mỗi loại thuyền dựa trên
một khuôn mẫu chung. Nan thuyền Nan thuyền có 3 loại: nan dọc, nan ngang
và nan mũi. Trong đó nan dọc là nan quan trọng nhất, vì nan dọc tạo nên
xương sống của chiếc thuyền, nên thường được dùng đoạn gốc của cây nứa.
Đan mê thuyền là một trong những khâu quan trọng nhất của làm thuyền.
Người thợ phải rất tỉ mỉ, cẩn thận khi đan thì các nan thuyền mới đều
và khít khi đó các công đoạn sau: sơn thuyền, mê và sắn thuyền sẽ gắn
kết làm một, lòng thuyền sẽ ko bị thấm nước. Mê thuyền đan xong sẽ đem
ra phơi nắng. Nan sẽ bị ngót, người thợ phải làm tiếp công đoạn nữa là
dồn nan và cài thêm nan dọc theo kiểu “cất 5 đè 2”.Tiếp đến là công đoạn
cạp thuyền. Người ta đào một cái hố đất theo hình lòng thuyền, sau đó
chốt cọc ở bốn góc để làm gióng cạp. Cạp thuyền làm bằng tre đực già
tách đôi, hai đầu vót mỏng. Cạp thuyền có hai loại là cạp trong và cạp
ngoài. Cạp trong là thành phần chịu lực chính của thuyền nên phải dùng
tre gốc. Cạp thuyền xong đến nộm thuyền để buộc chặt cạp trong và cạp
ngoài.
Trong quy trình đan thuyền thì nức thuyền – buộc thuyền chính thức,
là khâu quan trọng nhất. Trước đây người thợ nứt bằng lạt tre. Để lạt
mềm và bền thì trước khi nứt, người thợ phải chọn lạt cật tre đem luộc
kỹ sau ngâm với nước muối. Còn ngày nay hầu hết thuyền được nứt bằng dây
thép nhỏ. Sau khi nứt xong thì tiếp tục đến sơn. Thuyền được sơn bằng
một loại vỏ cây gọi là sắn thuyền. Trước khi sơn, sắn thuyền phải được
cạo sạch vỏ, dùng dao băm nhỏ, sau đó cho vào cối giã cho đến khi thật
dẻo, thật nhuyễn thì thôi. Thuyền phải được sơn làm ba lần thì lòng
thuyền mới không bị thấm nước. Sơn lần thứ nhất là để sắn thuyền kết
dính toàn bộ các mắt nan, đến lần thứ hai, thứ ba là để củng cố lại độ
kết dính. Sau khi sơn thuyền sẽ được hong phơi cho khô. Nhưng nếu phơi
gặp trời nắng to quá thì sắn thuyền sẽ bị nứt. Vì vậy, trời nắng to phải
phơi thuyền vào trong bóng râm miễn sao cho khi sờ tay vào mặt thuyền
thấy se tay là được.
Về thôn Nội Lễ, xã An Viên, huyện Tiên Lữ những năm trở lại đây, sẽ
rất khó để nhận ra đây từng là làng nghề đan thuyền truyền thống. Bởi
hầu như các hộ gia đình đều chuyển sang nghề khác làm với mức thu nhập
khá hơn lại thiết thực với cuộc sống hiện tại. Bác Phạm Văn Miền – một
trong những người cuối cùng còn theo đuổi nghề đan thuyền chia sẻ: “Thời
buổi này thuyền nan không còn được ưa chuộng nữa vì xuất hiện rất nhiều
thuyền tôn, thuyền bê tông. Làm thuyền bây giờ ngày công thấp lắm, chịu
khó lắm thì cũng chỉ được vài chục nghìn nhưng cái khó là hiếm người
mua lắm nghìn, đa phần người dân nơi đây đã chuyển sang làm nghề khác
với mức thu nhập cao hơn.”
Chính sự thay đổi của thị trường, sự phát triển của công nghệ đã gần
như “xóa sổ” một làng nghề truyền thống. Đây không chỉ là vấn đề riêng
của thôn Nội Vũ, mà còn là vấn đề đặt ra đối với việc lưu giữ và phát
triển các ngành nghề truyền thống từ lâu đời không chỉ ở Hưng Yên mà còn
ở các địa phương khác trong cả nước cần rất nhiều sự quan tâm của các
cấp, các ngành liên quan.
Theo infonet.vn