Để có tay nghề thành thạo như hôm nay, Tuấn
Anh phải mất nhiều năm khổ luyện. Anh nói, quy trình Đậu bạc truyền
thống của làng trải qua nhiều công đoạn tỷ mỉ như nấu, cán, kéo, se và
ghép... Ai không chịu khó, kiên trì khó có thể học được.
Từ những miếng bạc lớn nguyên chất dùng bễ
nấu thành các thanh bạc nhỏ. Khi miếng bạc bỏ vào nấu đến khi chảy ra,
đổ vào chão chảy thành dạng thanh mất khoảng 5- 10 phút/1 thanh. Trong
quá trình nấu, công việc khó nhất của các nghệ nhân là phải giữ nhiệt
đều, liên tục để nhiệt luôn mạnh. Nếu nhiệt không đều bạc sẽ bị đông bề
mặt, không chảy được, nổi gân...
Những thanh bạc sẽ được đưa qua máy cán để
nó nhỏ dần hơn. Đến đây, những thanh bạc sẽ được sử dụng vào nhiều mục
đích khác nhau như làm khung, tạo xương cho sản phẩm hoặc số còn lại đưa
qua bàn kéo cho sợi bạc nhỏ hơn nữa. Sợi bạc nhỏ nhất có thể chỉ còn
khoảng 3mm.
Những sợi bạc nhỏ, nghệ nhân sẽ se, tết lại
với nhau thành những sợi chỉ se bạc. Sợi chỉ se là nguyên liệu chính
tạo ra các hoa văn, họa tiết cho sản phẩm đậu bạc như bông hoa, các linh
vật... Mỗi nghệ nhân, tuỳ vào tay nghề của mình để ghép nhiều hoặc ít
hoa văn, họa tiết thành một sản phẩm đậu bạc thô. Để sản phẩm đậu bạc
hoàn thành, các nghệ nhân phải dùng dũa làm sạch, nhẵn bóng bề mặt…
Trong những công đoạn trên, có thể nói khó
khăn lớn nhất là dựng hình gắn kết các hoa văn hoạ tiết tạo hình, chế
tác sản phẩm. Từ khi làm những sản phẩm đơn giản, một nghệ nhân có thể
phải mất cả chục năm nữa mới chế tác được sản phẩm tinh xảo...
Lắm nỗi gian nan
Trao đổi với Phóng viên Báo Người Hà Nội,
ông Nguyễn Văn Tuyến- Chủ tịch UBND phường Định Công cũng cho biết: Hiện
nay, cả phường có khoảng 4 vạn dân thì có tới 3 vạn dân là người có gia
đình gốc ở địa phương. Số dân còn lại khoảng 1 vạn dân là những hộ gia
đình sống trong khu đô thị mới. Những hộ gia đình sinh sống trong khu đô
thị mới hầu hết là do người từ nơi khác nhập về.
Phường Định Công trước kia là một xã thuộc
huyện Thanh Trì, mới nên phường thuộc quận Hoàng Mai được mấy năm. Người
dân trên địa bàn phường Định Công từ bao đời nay vẫn sinh sống bằng
những nghề truyền thống. Vào đầu thế kỷ XIX cả làng có khoảng 50-60% gia
đình giữ nghề. Tuy nhiên, khi bước vào nền kinh tế mở cửa các gia đình
lần lượt bỏ nghề làm việc khác. Đến nay, làng nghề chỉ còn gia đình nhà
ông Trường và ông Hiểu đang gìn giữ, phát triển nghề.