Nếu như nhiều làng nghề đã cơ giới hóa để sản xuất đại trà, tiết kiệm
thời gian và công sức thì tại phường 4, quận 6, từng cây chổi đót ra đời
vẫn dựa hoàn toàn vào đôi tay của người thợ.
LTS:
Sài Gòn-TP.HCM trong tiến trình đô thị hóa đã làm biến mất nhiều làng
nghề truyền thống, dù nó từng tồn tại hàng trăm năm. những làng nghề
còn lại đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức và hoạt động lay
lắt, phập phù… nếu không linh hoạt thay đổi thì sự lụi tàn chỉ còn là
vấn đề thời gian.
Chúng tôi đến làng làm chổi đót khu vực
quanh chợ Bình Tiên (quận 6) vào một buổi chiều nắng vàng ươm trên mọi
ngả đường. Nhưng nơi những người mẹ, người chị… đang cần mẫn trong từng
công đoạn để cho ra một cây chổi quét nhà thì ở đó, màu nắng còn rực rỡ
hơn.
Sản phẩm hoàn toàn thủ công
Trên đường Phạm Văn Chí, từ xa hơn trăm
mét khách đã có thể thấy những bó cỏ đót chất cao trước cơ sở Chú Năm ở
số 321. Ở đây, mặc ánh nắng chiếu xuyên góc, bà Lê Thị Bạch Mai vẫn
thoăn thoắt tuốt từng cọng bông cỏ đót màu vàng xám bằng đôi tay nhăn
nheo. Bám dày trên đầu tóc và áo quần bà là một lớp bụi cỏ mùi ngai
ngái.
Bà Lê Thị Bạch Mai vừa làm vừa kể chuyện 60 năm gắn bó với cây chổi của mình. Ảnh: H.LAN
Xong công đoạn đầu, bà cột bông cỏ lại
thành từng lọn nhỏ rồi chuyển sang cho một người đàn ông khác bó lại
bằng kẽm. Thân chổi kiểu xưa thì thường bằng cọng đót, sau này có loại
thân nhựa, thân gỗ. Loại thân truyền thống thì người bó phải độn thêm
cọng đót dư vào cho dày, cầm chắc tay sau đó siết lại bằng dây nhựa hay
kẽm tùy theo yêu cầu của khách hàng… Bà Mai nói sức bà tàn rồi nên chỉ
xé đót, làm tua, cột lọn thôi. Khâu bện chổi cho chắc để xài được lâu
thì cần nhiều sức, nhường lại cho cánh trai tráng. Bà Mai đã theo nghề
từ năm 13 tuổi, cái nghiệp làm chổi đã đeo đẳng bà hay ngược lại thì bà
không biết nhưng ngót nghét đã được 60 năm!
Xóm chổi đót quận 6 hầu như không có sự
xuất hiện của máy móc. “Bây giờ, quy trình làm chổi vẫn như cũ, máy móc
chẳng làm thay được. Thợ cũng vậy, phải là người có tay nghề, vì bông cỏ
mắc quá, ai mà cho thử việc” - bà Mai nói. Mấy năm trước, bà mua bông
cỏ đót về tự sản xuất nhưng con cái bà chê làm cực quá nên không chịu
làm phụ. Một mình không thể gồng gánh hết mọi công đoạn, bà đành quay
lại xé đót mướn cho người khác. Xung quanh xóm nghề này, ai cũng biết
tiếng bà Mai. Ngày công của bà chừng 100.000 đồng đổ lại. Bao nhiêu năm
như thế, một mình bà xoay sở sống, không cậy nhờ con cái gì.
Hoàn cảnh của bà Ngô Kim Xuyên ở hẻm 192
Phạm Văn Chí thì có chút vui hơn. Sau mấy chục năm tích cóp, bà có vốn
mua bông cỏ đót về sản xuất tại nhà, thợ nghề chính là con cháu của bà.
Con bà Xuyên đã có lần đạt giải nhất trong cuộc thi bó chổi do phường
tổ chức. “Làm một cây chổi tốn khá nhiều công đoạn, cần nhiều thợ phụ
nhưng thu nhập chẳng bao nhiêu. An ủi được cái ở gần nhà, quây quần cùng
con cháu là vui rồi” - bà Xuyên nói.
Dạo một vòng quanh xóm, nhiều người thú
nhận mình không học hành bao nhiêu, làm chổi như một cái nghiệp truyền
đời. “Nghề này khổ, quanh năm bụi bặm nhưng không làm chổi thì không
biết làm gì!” - bà Mai tâm sự.
Con trai bà Ngô Kim Xuyên từng đoạt giải nhất cuộc thi bó chổi do phường tổ chức. Ảnh: H.LAN
Vào ra đều gặp khó
Tình trạng khó khăn của nghề làm chổi hiện nay xuất phát ở cả hai đầu. Đầu vào của nguyên liệu lẫn đầu ra của sản phẩm.
Cây đót trên núi mỗi năm chỉ nở vào
tháng Giêng đến tháng 2 âm lịch rồi lụi tàn, về với đất. Bông đót làm
chổi phải cắt khi chúng còn non, xanh và chưa nở hoa. Sau khi phơi khô,
đót sẽ chuyển sang màu vàng, xám. Bây giờ đót ngày càng hiếm vì nhiều
nơi, người ta đã thay bằng bạch đàn để kinh tế hơn.
“Bông cỏ đót ở Gia Lai thường có màu
sáng, mịn và dẻo dai hơn ở Trà My (Quảng Nam) hoặc Trà Khúc, Trà Bồng
(Quảng Ngãi) nên giá cao hơn. Một cây chổi thường phải trộn các loại với
nhau để giảm giá thành. Đót trong nước ngày càng ít đi, có khi phải thu
mua đót tận Lào mới đủ. Hiện 1 kg đót giá 40.000 đồng, mỗi cây chổi làm
hết ba lạng đót” - ông Trần Giàu, hẻm 256 Phạm Văn Chí, chuyên bỏ đót
lại cho các hộ gia công thành phẩm, cho biết.
Nói về thị trường cho sản phẩm, ông Giàu
kể: “Đầu thập niên 1990, cùng với việc mở cửa, hội nhập, chổi đót xuất
ngoại đến các nước như Đài Loan, Singapore, Indonesia, Campuchia nhưng
giờ thị trường này teo tóp dần, khách hàng nước ngoài đã chuyển sang
chọn hàng Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan... vì giá thành rẻ hơn”.
Nếu như trước đây sản phẩm của làng chổi
đót quận 6 đổ về chợ Bình Tiên và đủ sức cung cấp hàng cho các tỉnh từ
Khánh Hòa đổ về tới tận Cà Mau thì nay nhiều hộ đành bỏ nghề vì cạnh
tranh không nổi với chổi của người dân miền Trung.
Theo bà Nguyễn Thị Nở thì các hộ làm
chổi quận 6 đa phần có gốc gác từ miền Trung, đặc biệt là các xã Phổ
Phong, Phổ Thuận (huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi). Những năm 1960, vùng đất
Quảng Ngãi bị giặc Mỹ tàn phá nặng nề, bà con lũ lượt kéo vào Nam và mưu
sinh bằng nghề làm chổi. “Sau 1975, bà con lại ùn ùn phá nhà quay về
quê cha đất tổ, những tưởng nghề chổi cũng lụi tắt theo. Thế nhưng về
quê làm ăn khổ quá, họ lại quay lại tiếp tục nghề chổi” - bà Nở kể. Giờ
chổi bán không chạy như xưa nữa, bà Nở xé đót để bỏ cho các hộ gia công.
Cái vòng lẩn quẩn đó tưởng không bao giờ dứt.
Không biết sẽ còn núm níu với nghề được
bao lâu nhưng “còn sức thì còn làm” là câu nói cửa miệng của nhiều phụ
nữ vẫn ngày đêm cần mẫn ngồi xé đót. Nghề chổi không giàu được nhưng đã
là nguồn sống cho rất nhiều gia đình. Với họ, cái mùi ngai ngái, cái màu
vàng xám buồn buồn của bông cỏ dường như đã là một phần của đời sống,
của hơi thở hay của chính con người họ mất rồi.
Theo: phapluatthanhphohochiminh
Hiện còn hơn 20 hộ làm chổi
bám trụ với nghề, sống rải rác trong khu vực chứ không tập trung như
trước nữa. Phường luôn tạo điều kiện cho các hộ sản xuất tiểu thủ công
nghiệp duy trì ngành nghề bằng cách hỗ trợ vay vốn từ 5 đến 50 triệu
đồng tùy theo khả năng, quy mô sản xuất của mỗi hộ theo quy định. Những
năm qua, nghề làm chổi đã góp phần giải quyết việc làm cho không ít
người lao động tại địa phương.
Ông DƯƠNG HUỲNH NHÂN, Phó Chủ tịch phường 4, quận 6
|