(Dân trí) - Tấm bia khắc trên vách núi ghi lại
chiến công của Thái Thượng Hoàng Trần Minh là một trong những tấm văn
bia tốn nhiều giấy mực của các sử gia thời phong kiến. Đã 7 thế kỉ trôi
qua nhưng bài văn khắc trên núi đá như vẫn còn tươi nét bút.
Núi Thành Nam, nơi có tấm văn bia Ma nhai độc đáo
Tái hiện chiến công
Sau 3 lần đại thắng đế quốc Mông Cổ, nhà Trần bắt tay vào việc phục
hồi và phát triển đất nước. Dưới sự trị vì của các vị vua sáng và các
tôi hiền tướng giỏi, uy thế của Đại Việt ngày càng lớn mạnh. Nhưng trong
thời gian này các tù trưởng địa phương cũng như các nước láng giềng
thường đem quân quấy phá nơi biên viễn. Sau khi đánh dẹp Ngưu Hống ở Đà
Giang, lại xảy ra việc Chúa Ai Lao gây hấn vùng biên phía Tây đạo Nghệ
An.
Năm Ất Hợi niên hiệu Khai Hựu thứ 7 (1335) đời vua Trần Hiến Tông,
Thái thượng hoàng Trần Minh Tông quyết định “tự làm tướng đích thân chỉ
huy quân đội, hiệu lệnh nghiêm minh, uy thanh vang dội” khiến “Ai Lao
nghe tiếng chạy mất hút”. Thượng thượng hoàng liền lệnh Phát vận sứ
Nguyễn Trung Ngạn soạn văn khắc vào vách núi kỷ niệm chiến thắng. Tấm
bia hiện còn tại núi Thành Nam, xã Chi Khê, Con Cuông, Nghệ An. Nguyên
văn chữ Hán, tạm dịch như sau:
Trải qua gần 7 thế kỷ, những nét khắc trên vách núi vẫn còn rõ nét
“Đời vua thứ sáu triều
Trần nước Đại Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết nhận
được mệnh trời, làm chủ hết cả bốn cõi, khắp trong đất ngoài bể không ai
không thần phục, thế mà nước Ai Lao nhỏ bé kia còn ngang ngạnh với giáo
hóa của triều đình. Cuối thu năm Ất Hợi, nhà vua thống lĩnh sáu quân đi
tuần ở cõi Tây. Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm và tù
trưởng đạo thần là Quỳ, Cầm, Xa, Lặc rồi các bộ mán mới phụ thuộc là tù
trưởng rợ Bôi Bồn và rợ Thanh Xa đều dâng sản vật của địa phương mình
và tranh nhau đón rước. Chỉ một mình tên giặc Bổng (chúa Ai Lao - PV)
cứ giữ thói u mê, sợ tội mà chưa tới chầu ngay. Đến cuối đông, vua đóng
quân ở cánh đồng Cự Đồn thuộc Mật Châu rồi lệnh cho các tướng cùng với
quân lính mọi rợ vào tận nơi ở của chúng. Tên giặc Bổng nghe uy thế liền
trốn chạy, vua bèn xuống chiếu đem quân về. Ngày tháng 12, đông nhuần,
năm Ất Hợi, niên hiệu Khai Hựu thứ 7, khắc vào đá”.
Toàn bộ văn bia ngắn gọn chỉ 14 dòng với 155 chữ, khắc sâu trên vách núi đá vôi,
ngoảnh mặt trông ra sông Lam là minh chứng cho hào khí Đông A cũng như
tinh thần bảo vệ bờ cõi của vương triều Trần và nhân dân Đại Việt, đồng
thời cũng là lời nhắc nhở, răn đe cho những tù trưởng hay thủ lĩnh có
mưu đồ chống phá lại sự ổn định và thống nhất đất nước lúc bấy giờ.
Bút tích của vị Hoàng giáp nổi tiếng triều Trần
Không giống như các bia đá khác, Bia Ma nhai kỷ công bia văn
được khắc trực tiếp lên núi đá và không ghi rõ người soạn, người viết
chữ, kể cả hoa văn trang trí. Nhưng nó lại được các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục
của Quốc sử quán triều Nguyễn nhắc đến và cho biết tác giả là Nguyễn
Trung Ngạn - Hoàng giáp khoa Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long thứ 12 đời
vua Anh Tông triều Trần (1304). Ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng
trong triều đình như Gián quan, Ngự sử đài Thị ngự sử, Nội mật viện phó
sứ...
Nguyên văn Bia Ma nhai Kỷ công văn bia
Đặc biệt, năm Giáp Dần (1314), Nguyễn Trung Ngạn được cử đi sứ nhà Nguyên. Đến năm 1341,
ông được giao giữ chức Kinh sư đại doãn (tương đương chức Bí thư Thành
ủy Hà Nội ngày nay) và là vị Kinh sư đại doãn nổi tiếng nhất trong lịch
sử Thăng Long - Hà Nội. Ông được
Phan Huy Chú đánh giá là một trong mười người phù trợ có công lao thời
Trần, ngang hàng với Thượng tướng Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương
Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Phạm Sư Mạnh.
Không chỉ là vị quan nổi tiếng về chính sự, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, một soạn giả tài năng. Về luật pháp ông cùng Trương Hán Siêu soạn bộ “Hình thư” và “Hoàng triều đại điển” nhưng nay cả 2 bộ luật này đều không còn lưu giữ được. Ông còn để lại trên dưới 84 bài chép rải rác trong các tập thơ của các tác giả đời sau như “Việt âm thi tập” của Phan Phu Tiên, “Nam Ông mộng lục” của Hồ Nguyên Trừng, “Hoàng Việt thi tuyển” của Bùi Huy Bích và “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn. Vì có tài văn học nên những lần Thái thượng hoàng thân chinh đều cho ông đi theo để biên soạn thực lục. “Ma nhai kỷ công bia văn” là tác phẩm văn học duy nhất còn lại của ông.
Những “kỉ lục” của tấm văn bia được mài vào vách núi
Bia Ma Nhai tuy chỉ 155 chữ nhưng lại có diện tích rất lớn (213cm x
155cm). Điều khá thú vị ở tấm bia này đó chính là nét chữ của nó to đạt
mức kỉ lục, xứng đáng xếp vào hàng bia có nét chữ lớn nhất Việt Nam.
Theo kết quả đo đạc sơ bộ, trung bình mỗi chữ có đường kính khoảng
10,5cm. Sách Đại Nam nhất thống chí chép “…chữ to bằng bàn tay, khắc sâu vào đá hơn 1 tấc, nay hãy còn…”.
Sự vô ý thức của con người đang phá hoại tấm bia Ma nhai độc đáo
Theo thống kê của Viện Viễn Đông Bác Cổ, tính đến năm 1945 ở nước ta
đã tìm thấy 1.157 văn bia, chủ yếu là các văn bia có từ triều Lê và
triều Nguyễn, còn văn bia của các triều đại trước đó rất ít và hầu hết
đều tập trung chủ yếu tại Đồng bằng sông Hồng. Tuyệt đại bộ phận những
văn bia kể trên đều là những văn bia chế tác. Độc đáo hơn cả phải kể đến
loại văn bia “Ma nhai” (ma: mài, nhai: vách núi) bởi đây là bia khắc
trực tiếp lên núi đá. Những văn bia này thường ghi lại các cuộc hành
quân hay tuần du của vua chúa, như bia Ma nhai “Thân chinh Phục Lễ Châu Đèo Cát Hãn” ở Lai Châu và Hòa Bình của vua Lê Thái Tổ, bia Ma nhai “Quế Lâm ngự chế”
của Vua Lê Thái Tông hay các bài thơ khắc trên vách núi tại động Hồ
Công của Vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Chúa Trịnh Sâm, Xuân Quận công
Nguyễn Nghiễm...
“Ma nhai Kỷ công bia văn” của
Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn chính là tấm văn bia Ma nhai cổ nhất tại
Việt Nam hiện nay. Đây là một tư liệu đặc biệt quý hiếm trong công tác
nghiên cứu sử học, văn học và là một di tích lịch sử độc đáo bậc nhất
trong kho tàng văn hóa dân tộc. Tháng 7/2011, Bộ VHTT&DL đã công
nhận bia Ma nhai kỷ công bi văn là di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Trần Tử Quang (dantri)