Chính phủ vừa tổ chức sơ kết 2
năm thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 21/11/2009 về phê duyệt Đề án Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tới năm 2020 (gọi tắt là Đề án 1956). Tổng kết đã
chỉ ra cái được và chưa được của đề án 1956.
Nhóm nghề truyên thống: cách dạy và học thiết thực
Với nhóm nghề truyền thống,
Tổng cục Dạy nghề phối hợp với Hiệp hội Làng nghề Việt Nam xác định các nghề
thủ công mỹ nghệ cần được quan tâm đưa vào chương trình dạy nghề, đó là các nghề:
chế biến gỗ, sơn mài, chạm, khảm; làm đồ gốm; làm đồ đồng; nghề mây tre đan;
nghề thêu ren; nghề dệt (lụa, thổ cẩm)… Đó là những nghề truyền thống cần được
bảo tồn và có khả năng phát triển. Với các nghề này, nhiều doanh nghiệp đã hỗ
trợ tiền ăn, tiền đi lại cho người học nghề và trả lương trong quá trình học
tập ở các lớp do doanh nghiệp tổ chức đào tạo. Điển hình như dạy nghề ở làng
nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) và nghề thêu ở
Thường Tín (Hà Nội)…. Các nghệ nhân đã mở lớp không chỉ ở làng nghề mà còn cho
các vùng có mong muốn mở làng nghề mới như dạy nghề đúc đồng cho lao động
ở Nam Định, Đồng Nai; dạy nghề thêu cho lao động ở Ba Vì, hình thành các làng
nghề, khu vực gia công nghề mới. Thực tế cho thấy, nếu phát triển mô hình một
cách bài bản thì sẽ có sự nhân rộng, và mục tiêu đào tạo sẽ đạt được.
Lớp học nghề dát đồng
( ảnh sưu tầm )
Trong các làng nghề, các doanh
nghiệp làng nghề, hiệp hội nghề nghiệp chủ động chủ trì tổ chức những lớp dạy
nghề ngay tại mỗi làng nghề: học viên là lao động trong làng hoặc làng bên (đi
lại thuận tiện), thày dạy là những nghệ nhân, thợ giỏi trong từng ngành nghề,
có giao lưu với các làng nghề cùng nhóm ngành trong cả nước nên tạo được sự đa
dạng khi phát triển nghề. Hiện một số làng nghề đã xây dựng được giáo trình
nghề sơ cấp, trung cấp, được thẩm định bởi cơ quan chức năng. Cách học cũng rất
thiết thực: không phải là "truyền khẩu", dạy miệng, dạy chay như
trước đây, mà nay cũng đã có giáo trình bài bản, lại có thêm những công cụ hiện
đại (như băng, đĩa hình … ) trợ giúp cho việc học tập, truyền nghề.
Nghề trồng và chế biến
chè sạch ( ảnh sưu tầm ).
6 mô hình hiệu quả
lớn của nhóm nghề chuyên canh
1. Nghề trồng và sơ chế cây
thuốc lá: Nghề này đã được triển khai dạy hơn 100 lớp học ở nhiều vùng nguyên
liệu từ Bắc tới Nam,
gắn với các vùng nông thôn nghèo. Tới thời điểm này, đã có 400.000 lao động
nông thôn có việc làm ổn định từ nghề này.
2. Nghề trồng và chế biến chè sạch
(phối hợp với Tổng Công ty Chè)
3. Nghề trồng mía- đặc biệt
thành công ở miền Tây Thanh Hóa. Công ty mía đường Lam Sơn đã mở những lớp dạy
nghề, phổ biến kỹ thuật trồng mía bài bản cho bà con.
4. Nghề trồng và chăm sóc cây
cao su: Các lớp dạy nghề được mở ở các vùng nguyên liệu của Tổng công ty Cao su
gồm khu vực Tây Bắc, Tây Nam
bộ, gắn với an ninh biên giới
5. Nghề trồng và chế biến sắn
ở các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam.
Bà con học nghề và phát triển vùng trồng sắn nguyên liệu ở các vùng đất đồi.
6. Nghề trồng rau an toàn, rau
sạch theo tiêu chuẩn VietGAP (tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt): Các lớp
dạy nghề đã góp phần phát triển các vùng rau sạch ở nhiều địa phương trong cả
nước như Bắc Ninh, Hà Nội, Thái Bình…
Đối với những nghề trồng cây chuyên
canh, trong quá trình đào tạo, người học ngoài việc được dạy kỹ năng nghề còn
được cung cấp các kiến thức về bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường, các quy định
quốc tế về An toàn vệ sinh thực phẩm, về an toàn sản xuất, về quy trình chuẩn…
Ngoài ra, các mô hình này đã và đang thực hiện ở nhiều xã xây dựng nông thôn,
góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010-2020 theo Quyết định số 800/QĐ-TTg (ngày 4/6/2010) của Thủ tướng
Chính phủ. Việc dạy nghề thành công sẽ tác động tới 4/19 tiêu chí gồm: thu nhập
bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản
xuất.
“4 có” và “4 biết”
Năm 2011, Ban Chỉ đạo Trung ương
thực hiện Đề án 1956 đã quán triệt việc thực hiện “4 có” và “4 biết”. Đây là
những hoạt động hết sức cần thiết ở mỗi địa phương để đảm bảo kết quả cuối cùng
là ít nhất 70% có việc làm sau học nghề. “ 4 có” là các địa phương phải có ban
chỉ đạo cấp huyện, xã với chương trình được phê duyệt cả giai đoạn 2011-2015; có
quy hoạch phát triển nhân lực địa phương để nắm nhu cầu lao động cho xã của
mình; có danh sách các cơ sở đào tạo nghề của địa phương mình; có chương trình
thông tin, tuyên truyền với sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng
từ cấp huyện. “4 biết” là biết địa chỉ của những cơ sở sản xuất, kinh
doanh giỏi mang tính điển hình; biết các chính sách hỗ trợ người nông dân đi
học nghề; biết rõ các địa chỉ đào tạo nghề mà mình có nhu cầu ngay tại địa
phương; biết địa chỉ nơi làm việc của mình khi học nghề xong.
Theo nhận định của Ban Chỉ đạo Trung
ương, địa phương nào thực hiện đủ “4 có”- “4 biết” thì hầu hết lao động sau học
nghề có việc làm, vì đáp ứng đúng nhu cầu của lao động và nhu cầu nhân lực địa
phương. Tuy nhiên, còn một số địa phương chưa nắm được tinh thần này, làm không
đúng và không trúng. Việc xác định nhu cầu học nghề của lao động cũng phải cân
nhắc trên cơ sở thực tế địa phương. Chẳng hạn, điều tra nhu cầu của một xã ở
Cao Bằng thì có tới hơn 80 nông dân muốn học nghề sửa chữa xe máy với mong
muốn: “sửa chữa cho xe máy của nhà”. Nếu chỉ căn cứ vào đó để mở lớp thì chưa
đủ, và cũng không đúng tinh thần đề án 1956. UBND xã phải xác định, nhu cầu về
dịch vụ sửa xe máy cho người dân trong vùng, cần bao nhiêu thợ sửa, bao nhiêu
người có khả năng mua thiết bị, mở cơ sở sửa chữa và làm nghề một cách chính
thức. Sau khi trả lời được các câu hỏi đó mới quyết định có nên mở lớp hay
không, hay ưu tiên cho nghề khác đang cần kíp hơn…
(Tổng hợp)