Thành
phố Hồ Chí Minh không phải là cái nôi của nghề đúc đồng, thế nhưng nghề
đúc đồng nơi đây cũng đã từng trải qua một thời phồn vinh và hưng
thịnh. Ngày nay, tuy nghề đúc đồng không còn phát triển như xưa, nhưng
vẫn còn những nghệ nhân không rời bỏ nghề, đơn giản vì họ muốn lưu giữ
một nét đẹp truyền thống.
Một thời vang bóng
Nghề
đúc đồng ở TP Hồ Chí Minh có tuổi đời hơn 200 năm và những sản phẩm làm
ra có mặt khắp Nam kỳ lục tỉnh, thậm chí xuất sang cả các nước như:
Campuchia, Lào, Mianma… Địa danh nổi tiếng với nghề đúc đồng có thể kể
đến là Chợ Lớn với những sản phẩm nổi tiếng như chảo đồng, ô đồng, lư
hương, chân đèn, bình bông, tượng phật, đồ tam khí… Khi nghề đúc đồng
phát triển, nó được nhân rộng sang các khu vực khác, trong đó có làng An
Hội thuộc phường 12, quận Gò Vấp ngày nay.
Nghệ nhân đúc đồng không chỉ cần đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ mà còn cần thổi được hồn vào tác phẩm đó. |
Theo
ông Trần Văn Thắng, nghệ nhân làng đúc đồng An Hội, nghệ nhân khai sáng
làng nghề đúc đồng An Hội là ông Trần Văn Kỉnh. Ông Kỉnh từ An Hội vào
Chợ Lớn học nghề với mục đích kiếm kế sinh nhai, thế nhưng sau khi học
được nghề, ông yêu nghề từ lúc nào không hay và ông đã huy động anh em,
bà con làm theo. Ông Thắng nhớ lại: “Vào thời đó, khắp An Hội, từ trẻ
con cho đến người lớn đều bám nghề cả.
Nghề
đúc đồng phát triển đến nỗi vào ngày cận Tết, người làm, người giao
hàng rồi khách đặt hàng ra vào khiến cho không khí trong vùng lúc nào
cũng sôi động. Chưa kể, người khắp nơi kể cả ở miền Trung, miền Tây Nam
bộ cũng về xin học nghề rất đông. Có thể nói bấy giờ nghề đúc lư đồng
giúp bà con trong vùng có cuộc sống sung túc. Làng An Hội thời kỳ hưng
thịnh có đến 40 hộ mở cơ sở sản xuất”.
Rời
làng Ngũ Xã (nay là phố Ngũ Xã, quận Ba Đình, Hà Nội) vào năm 1955, ông
Nguyễn Vinh Hiển theo bố mẹ và ông bà ngoại vào vùng đất Cống Bà Xếp
(nay gọi là khu Hòa Hưng, quận 3) để mưu sinh. Trong đợt này còn có 5
gia đình khác trong làng Ngũ Xã cũng di cư vào vùng đất Cống Bà Xếp để
mưu sinh. Họ cùng nhau gây dựng cơ nghiệp và tiếp tục phát huy nghề đúc
đồng truyền thống trên miền đất này. “Từ lúc 7 tuổi, tôi đã được cha mẹ
truyền nghề. Kế nghiệp cha mẹ, tôi đã cố công đưa những sản phẩm đúc
đồng của làng Ngũ Xã có mặt khắp khu vực phía Nam”, ông Nguyễn Vinh Hiển
tâm sự. Chính vì vậy, những sản phẩm thủ công do những người gốc làng
Ngũ Xã làm ra đã được khắp nơi biết đến, dần dần hình thành làng nghề
đúc đồng Hòa Hưng nức tiếng cả vùng đất phía Nam vào khoảng năm 1970.
Làng nghề này không chỉ đúc đồng tam khí mà còn phát triển thêm hình
thức đúc đồng đỏ nguyên chất có giá trị cao hơn. Có gia đình có đến vài
chục lò đúc với hàng chục nhân công.
Theo
các nghệ nhân đúc đồng, muốn trở thành một người thợ đúc đồng giỏi phải
thành thục 5 quy trình gồm: Kỹ thuật làm mẫu; tạo khuôn; pha chế đồng,
nấu đồng và rót đồng; sửa nguội; chạm khắc và đánh bóng. Khó nhất là ra
mẫu và đúc thành phẩm. Bởi nếu đúc ra hư, không giống khuôn mẫu thì phải
bỏ, vừa tốn thời gian, công sức và cả kinh phí. Tuy nhiên điều quan
trọng nhất vẫn là làm sao tạo được “hồn” cho mỗi sản phẩm, nhất là những
sản phẩm tạc đúc tượng người. Do đó, người đúc đồng bên cạnh đôi bàn
tay tỉ mỉ, khéo léo, sức khỏe tốt còn phải biết “thổi hồn” vào tác phẩm
đó.
Gian nan tìm người kế nghiệp
Đặc
trưng của nghề đúc đồng thủ công là phải chạm trổ nên đòi hỏi người thợ
phải tỉ mẩn, kiên nhẫn và khéo léo. Đây cũng là một phần nguyên nhân
khiến nhiều người bỏ nghề. Vì cùng một khoảng thời gian đó, nếu làm công
việc khác họ sẽ có thu nhập cao hơn. Anh Trần Văn Minh, một thợ đúc
đồng, buồn rầu nói: “Ngày nay, ít ai muốn làm nghề đúc đồng. Giá bán
trung bình một bộ lư khoảng 2 triệu đồng nhưng phải mất rất nhiều công
sức và kinh phí… Chẳng hạn làm một bộ lư đồng ít nhất mất 3 ngày công,
nguyên liệu trung bình từ 10 đến 30 kg đồng. Vài năm trước, mỗi kilôgam
đồng chỉ vài chục ngàn đồng nhưng đến nay lên đến hơn 100.000 đồng/kg,
tiền mua đất sét làm khuôn cũng tăng cao. Trong thời buổi kinh tế thị
trường hiện nay, nhiều người đã quyết định bỏ nghề đúc đồng vì không thể
làm nghề theo cách lấy công làm lãi”.
Trải
qua gần 60 năm, làng nghề đúc đồng Hòa Hưng một thời hưng thịnh, nay
chỉ còn vợ chồng ông Hiển vẫn ngày đêm cặm cụi với nghề tổ để lại. Ba
người con của ông dù được truyền nghề từ lúc lên 10 tuổi nhưng giờ đều
bỏ cuộc, bởi ai cũng muốn có một công việc cho thu nhập cao hơn. Chỉ
những lúc rảnh rỗi, ba người con mới về nhà giúp bố mẹ làm những sản
phẩm đồng truyền thống. Ông Hiển cho biết: “Khách hàng vẫn thường tìm
đến tôi để đặt hàng nhưng chúng tôi chỉ làm cho khách thân quen. Bây
giờ, bình quân mỗi tháng vợ chồng tôi làm khoảng 1 hoặc 2 tượng đồng,
với thu nhập khoảng 8 triệu đồng/tháng cũng đủ trang trải cho cuộc
sống”.
Gia
đình ông Thắng, ông Hiển và một số gia đình khác vẫn luôn tìm cách giữ
nghề. Ông Thắng chia sẻ: “Tôi là người Sài Gòn gốc. Đến tôi là đời thứ
tư làm nghề này. Gần cả cuộc đời gắn bó với nghề, nghề ăn vào máu mình
lúc nào không hay. Nghề của ông cha được lưu truyền gìn giữ từ đời này
sang đời khác khiến tôi không thể xa nghề”.
Theo
quy ước xưa của nhiều làng nghề đúc đồng truyền thống là không được
truyền nghề cho người ngoài. Tuy vậy, trước nguy cơ thất truyền, ông
Hiển đã tìm được vài người trẻ để truyền nghề. Buồn thay, sau vài năm
gắn bó, những người trẻ đó đã bỏ nghề do không chịu được vất vả, hoặc
không đủ kiên nhẫn để học. “Trăn trở nhất là vẫn chưa tìm được người để
truyền nghề, bao nhiêu kinh nghiệm mà mình tích lũy lại bây giờ không ai
theo để truyền dạy lại nên phí. Chắc khoảng hai năm nữa, tôi cũng phải
dừng làm nghề vì sợ không còn đủ sức khỏe. Tuy nhiên, để giữ gìn và phát
triển nghề, tôi sẽ viết cuốn gia phả của làng nghề đúc đồng, nêu hết
các kỹ thuật, bí quyết… để những người nào muốn học nghề khi đọc cuốn
sách này thì có thể làm được”, ông Hiển tâm sự.
Theo: TTXVN