Sự “oanh tạc” của hàng
ngoại nhập đang tạo thêm gánh nặng cho các DN vật liệu xây dựng của nước
ta trong bối cảnh khó khăn hiện nay. Theo lộ trình, một số hàng rào
thuế quan sẽ được dỡ bỏ vào năm 2015, nếu không chuẩn bị ngay từ bây
giờ, DN sẽ không thể cạnh tranh được với hàng ngoại.
“Thoi thóp” vì hàng nhập
Báo cáo phục vụ Đại hội cổ đông thường
niên năm 2013 của Tổng công ty Thép Việt Nam (VnSteel) sẽ được tổ chức
vào ngày 25-4 cho thấy, tình hình sản xuất kinh doanh của ngành thép
chưa bao giờ khó khăn như năm vừa qua. Không nằm ngoài tình hình chung
của ngành và các DN khác, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm
2012 gặp vô vàn khó khăn.
Có những tháng tỉ lệ tồn kho/tiêu thụ của
các đơn vị thành viên của tổng công ty tăng trên 60%, dẫn đến chi phí
tài chính tăng trong khi các đơn vị liên tục phải hạ giá bán, có lúc giá
bán các mặt hàng thép giảm mạnh không đủ bù đắp chi phí cấu thành sản
phẩm. Đặc biệt, lượng thép cán nguội giá rẻ nhập từ Nga, Trung Quốc và
các nước trong khu vực cũng gây ảnh hưởng lớn đến sức tiêu thụ của ngành
thép nói chung và Tổng công ty nói riêng.
TS Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội Vật liệu
xây dựng Việt Nam chia sẻ: Đến nay ngành công nghiệp vật liệu xây dựng
của nước ta đã có thể đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trong nước và có nhiều
khả năng XK ra nước ngoài. Nhưng trong năm qua, bên cạnh việc đầu tư
xây dựng trong nước giảm thiểu thì hàng vật liệu xây dựng như gốm sứ xây
dựng, kính xây dựng, đá ốp lát, sơn các loại, tấm lợp kim loại,... lại ồ
ạt NK vào Việt Nam, bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh, làm cho
hàng vật liệu xây dựng sản xuất trong nước tồn kho lớn, các DN sản xuất
cầm chừng, dừng sản xuất, chỉ khai thác được 60 - 80% năng lực sản xuất.
Cùng chung “tâm tư” với nhiều ngành hàng
khác, ngành gốm sứ xây dựng cũng là ngành có những động thái rất mạnh mẽ
khi lên tiếng về sức “công phá” của hàng nhập ngoại đối với hàng trong
nước. Hồi tháng 8-2012, ban lãnh đạo của Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt
Nam đã đề nghị Chính phủ thành lập Tổ liên ngành kiểm tra đầu nguồn NK
do Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam phụ trách gồm các đại diện: Hiệp
hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam, Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Công Thương,
Tổng cục Hải quan, VCCI.
Lí do mỗi năm Việt Nam NK khoảng 50 triệu
USD gốm sứ xây dựng giá rẻ từ Trung Quốc khiến ngành gốm sứ xây dựng
trong nước lao đao. Theo đó, Tổ kiểm tra đầu nguồn sẽ định kỳ đến các cơ
sở sản xuất ở Trung Quốc theo đề nghị của chủ hàng NK Việt Nam, hoặc
chủ hàng XK trực tiếp Trung Quốc để kiểm tra các chỉ tiêu đã định tại
hiện trường và cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam
nếu đạt được các chỉ tiêu kiểm tra.
“Hàng rào” là biện pháp tối ưu?
Trước sức ép cạnh tranh, nhiều DN đã lên
tiếng đề nghị Nhà nước lập “hàng rào” kĩ thuật để bảo hộ hàng trong
nước. Ông Trần Văn Huynh cho rằng: Cần thi hành các biện pháp nhằm hạn
chế NK các sản phẩm gốm sứ, kính xây dựng, đá ốp lát, tổ chức kiểm tra
đầu nguồn các sản phẩm NK vào Việt Nam, tăng cường và quyết liệt hơn
trong công tác chống nhập lậu và thực hiện tốt các hàng rào kĩ thuật đối
với các sản phẩm vật liệu xây dựng.
Theo phân tích của các chuyên gia, lập
hàng rào kĩ thuật bảo vệ hàng trong nước là động thái mà quốc gia nào
cũng thực hiện. Nhưng trong khi các nước đều khá “thành thạo” trong việc
này thì việc khéo léo thực hiện các biện pháp kĩ thuật của phía Việt
Nam lại còn khá hạn chế. TS Lê Đăng Doanh nhận xét: Bộ máy quản lí Nhà
nước của chúng ta hiện nay đang quá chậm chạp trong việc bảo vệ cho hàng
hóa sản xuất tại Việt Nam. Khi hàng rào thuế quan giữa các nước ASEAN
và ASEAN với Trung Quốc được dỡ bỏ vào năm 2015, Việt Nam sẽ là một
trong những nước chịu nhiều thách thức nhất.
Song hàng rào kĩ thuật bảo vệ sản xuất
trong nước chỉ là một biện pháp, bản thân các DN nội cũng cần phải nâng
cao hơn nữa sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường nội địa
cũng như thị trường quốc tế. Đó mới là giải pháp lâu dài và là cái đích
cần hướng tới trong quá trình phát triển của các DN Việt, không thể chỉ
trông chờ vào sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. TS Nguyễn Anh Dương (Viện
Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương) cho rằng: Áp lực cạnh tranh sẽ
ngày càng gia tăng đối với DN Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn từ 2015.
Do đó ứng phó của DN rất quan trọng cho sự
phát triển của hoạt động thương mại trong nước. Điều quan trọng là các
DN cần phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy hình thành những DN phân
phối lớn của nước ta với các cơ sở kinh doanh hiện đại, có khả năng cạnh
tranh và dẫn dắt thị trường. Chẳng hạn cần khuyến khích hình thành
những DN là đồng sở hữu giữa người nông dân sản xuất nguyên liệu, cơ sở
chế biến và nhà phân phối.
Ngoài ra, DN cần nâng cao năng lực cạnh
tranh. Đây là vấn đề sống còn đối với DN trong điều kiện hội nhập sâu,
toàn diện vào nền kinh tế thế giới. DN cần chọn chiến lược kinh doanh
đúng đắn trong điều kiện mới trên cơ sở những định hướng phát triển các
ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm và lộ trình hội nhập mà chính phủ đã
công bố. Xây dựng chiến lược kinh doanh là xác định một hướng đi đúng
đắn, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của DN trong tương lai.
Trên cơ sở chiến lược kinh doanh, DN tổ
chức lại sản xuất kinh doanh nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm, tạo ra những sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, giá trị gia
tăng lớn, mẫu mã phù hợp với thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng
trong nước và nước ngoài. Đây có thể coi là một trong những yếu tố quyết
định sự tồn tại, vị thế của DN trong môi trường hội nhập.
Theo: Hải Quan