Phong tặng nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú: Lại vướng xin – cho
(Ngày đăng: 21/04/2013 Lượt xem: 1112)
![Phong tặng nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú: Lại vướng xin – cho](http://laodong.com.vn/Uploaded/vudangthanhhai/2013_04_18/Untitled-13.jpg?width=440&height=293&crop=auto&speed=0)
Những “đệ tử” nghề hát xẩm được
Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc VN âm thầm “đào tạo” trong suốt
chục năm qua - Ảnh: N.Đ.T
Trong khi rất nhiều nghệ nhân dân gian đang mòn mỏi sống qua
ngày và “trôi dần vào thế giới bên kia” thì bản Dự thảo Nghị định Quy
định đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục xét tặng danh hiệu “Nghệ
nhân dân gian”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật
thể vẫn đang trong quá trình lấy ý kiến góp ý – sau gần 10 năm trăn trở,
vướng mắc.
Tuần qua, bản dự thảo lần
thứ 3 một lần nữa lại được xem xét, “mổ xẻ” với rất nhiều điều còn lúng
túng, thiếu sự đồng thuận của các nhà khoa học cũng như của chính các
nghệ nhân.
Ông tổ của đờn ca tài tử sẽ không được vinh danh?
Cũng giống như việc phong tặng danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu
tú, tiêu chuẩn, quy trình xét tặng nghệ nhân nhân dân (NNND), nghệ nhân
ưu tú (NNƯT) cũng vẫn nặng về thủ tục hành chính một cách cứng nhắc,
mang màu sắc của cơ chế xin - cho. Điển hình là những yêu cầu về thời
gian làm nghề, bằng khen, huy chương; tài liệu chứng minh tri thức của
mình... Nhiều ý kiến cho rằng, việc số hóa, lượng hóa thời gian làm nghề
(đối với NNND là 25 năm, NNƯT 20 năm) là thiếu thực tế. Nghệ nhân có
đặc thù riêng, phần lớn là họ được chân truyền và thực hành từ khi còn
rất nhỏ. Lấy gì để làm căn cứ thời gian hành nghề của họ, trong khi đối
với nhiều người, đến năm sinh, tháng đẻ của mình còn chẳng nhớ chính
xác?
GS Tô Ngọc Thanh - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian VN dẫn chứng: Tôi biết
ở Mường Tè có thanh niên Hà Nhì mới chỉ 25 tuổi nhưng hát các làn điệu
truyền thống của dân tộc rất hay, anh này có thể hát liền 3-4 ngày mà
các bài hát không trùng nhau. Rất nhiều người đến học anh hát. Vậy, tại
sao phải đợi đến 20 năm sau mới xét tặng danh hiệu? Bên cạnh đó, phần
lớn nghệ nhân âm thầm lưu giữ và truyền dạy nếu có người đến học, hỏi
lấy đâu ra bằng khen với huy chương để mà đủ điều kiện làm hồ sơ? Việc
này, ngay cả đối với các nghệ sĩ đương đại đang rất được công chúng mến
mộ, nhưng không hoạt động trong các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng
khó mà đáp ứng, chứ nói gì đến những nghệ nhân, phần lớn sống ở “rừng
sâu, núi thẳm”? Điều gây phản cảm nữa là trong hồ sơ, “khổ chủ” phải tự
làm đơn xin xét tặng, gửi kèm tài liệu chứng minh tri thức, kỹ năng và
những đóng góp trong việc bảo vệ di sản như: Video, clip, ảnh mô tả,
huân chương, huy chương, giải thưởng... Đây thực sự là một quy định
“đánh đố” nghệ nhân – cũng vì những lý do trên.
Trong Nghị định cũng nêu rõ, chỉ truy tặng đối với những nghệ nhân đã
mất trong thời gian 5 năm trước ngày Nghị định này có hiệu lực. Đây cũng
là điều phi lý và gây bức xúc đối với các nhà nghiên cứu. GS Tô Ngọc
Thanh dẫn chứng, công lao của nghệ nhân Cao Văn Lầu hay nghệ nhân Nguyễn
Quang Đại – người đặt nền móng cho bộ môn đờn ca tài tử và nhạc lễ Nam
bộ - đã là người yêu văn hóa VN thì không ai không biết. Vậy theo quy
định này thì hai ông không được truy tặng danh hiệu hay sao? Rồi với đà
soạn thảo, Nghị định này, hàng loạt nghệ nhân nổi tiếng khác có lẽ cũng
bị trượt ra khỏi “barem”, vì trong vòng chục năm qua, có đến phân nửa số
nghệ nhân đã “đi theo tiên tổ”.
![](http://laodong.com.vn/Uploaded/vudangthanhhai/2013_04_18/Untitled-12.jpg) |
Nghệ nhân Hà Thị Cầu không đợi được đến lúc
Nhà nước vinh danh - Ảnh: Nguyễn Đình Toán |
Thờ ơ với báu vật
Lâu nay, truyền thông vẫn (tự bảo nhau) phong cho các nghệ nhân danh
hiệu “báu vật” của quốc gia, đồng thời lên tiếng đòi các cơ quan quản lý
nhà nước phải có chính sách đãi ngộ thích đáng với các báu vật sống ấy.
Thế nhưng, được khởi động từ gần chục năm nay, vậy mà quy trình, tiêu
chuẩn phong tặng danh hiệu vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập như nói ở
trên. Mặt khác, trong khi tiêu chuẩn xét tặng được lượng hóa một cách
máy móc, cứng nhắc, thì chế độ chính sách đối với nghệ nhân lại được
nhắc đến một cách chung chung, mông lung: Khoản 1, điều 3 của Nghị định
nói rõ: “...NNND, NNƯT được hưởng một số chính sách đãi ngộ được quy
định tại Nghị định này”. Thế nhưng cả 5 chương với 21 điều không thấy
nói rõ chính sách đãi ngộ ấy là gì.
Bộ VHTTDL có giải thích sự chậm trễ trong việc xây dựng nghị định là vì
có sự không thống nhất giữa Bộ Công Thương và Bộ VHTTDL. Cụ thể, trước
2009, việc phong tặng nghệ nhân được thực hiện theo Luật Thi đua khen
thưởng. Điều 65 của luật này quy định rõ là việc xét tặng nghệ nhân chỉ
dành cho lĩnh vực thủ công truyền thống, còn tất cả các nghề khác không
được phong nghệ nhân, đồng thời việc phong tặng này cũng được Chính phủ
giao cho Bộ Công Thương làm chứ không phải là Bộ VHTTDL. Trước thực tiễn
cần bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có việc
phong tặng danh hiệu nghệ nhân, năm 2009, Quốc hội đã sửa Luật Di sản
Văn hóa, đồng thời sửa Luật Thi đua khen thưởng. Điều 3 (sửa đổi) của
Luật Thi đua khen thưởng đã nói rõ danh hiệu NNND, NNƯT để dành cho
người có công, có tài trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể.
Sau đó, Bộ VHTTDL được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với Bộ Công
Thương và các ngành liên quan xây dựng nghị định, nhưng rất tiếc năm
2012, việc này bị “đứt gánh” giữa đường do Bộ Công Thương vẫn dứt khoát
“giữ” các nghệ nhân nghề thủ công truyền thống của mình như từ trước đến
giờ, với sự đồng ý của Chính phủ. Trong khi đó, bộ VHTTDL lại cho rằng,
nghề thủ công truyền thống là một loại hình văn hóa phi vật thể.
Chuyện cứ thế nhùng nhằng giữa hai bên, và đến giờ thì có thể nói chắc
chắn là sẽ có 2 nghị định để áp dụng cho việc phong tặng NNND, NNƯT -
một do Bộ Công Thương soạn thảo cho lĩnh vực nghề thủ công truyền thống,
một do Bộ VHTTDL soạn thảo cho 6 lĩnh vực còn lại của văn hóa phi vật
thể: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân
gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống và Tri thức dân
gian.
Mặc dù sự giải thích phần nào cũng có lý, nhưng không thể biện minh cho
việc làm quá chậm trễ này. Đến nay, cho dù vấn đề đã ngã ngũ, nhưng bao
giờ nghị định được hoàn thiện, trong bối cảnh vẫn còn nhiều ý kiến băn
khoăn, trái chiều; bao giờ được thông qua; bao giờ mới có thông tư hướng
dẫn? Thiết nghĩ, việc sớm có chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân là một
việc “sáng như ban ngày”, vậy tại sao các cấp quản lý cứ mãi thờ ơ với
những “quốc gia chi bảo” như vậy và bắt họ đợi đến bao giờ?
Theo: Lao Động