Suốt nhiều thế kỷ tồn tại, dòng tranh Đông Hồ đã sử dụng chính cái
hồn của cuộc sống để vẽ tranh và phác họa tinh thần dân tộc. Bởi vậy,
hiếm dòng tranh nào lại có sức sống bền bỉ trong tâm thức người dân như
tranh Đông Hồ. Từ trước đến nay, không ít thi phẩm, nhạc phẩm rồi đủ cả
những thước phim đã ghi lại dấu ấn của dòng tranh này.
Thương tranh nhưng... bất lực
Chúng tôi tìm về miền đất cổ tích - thôn Đông Khê (hợp bởi hai làng
Đông Hồ cũ và Tú Khê, xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) vào một ngày
cuối năm, mang theo những kí ức xa xăm về một dòng tranh cổ từng làm nức
tiếng dân tộc. Từ TP.Bắc Ninh, xuôi theo quốc lộ 38, tôi tìm về làng
tranh Đông Hồ huyền thoại. Tìm đến nhà cụ Nguyễn Hữu Sam - một trong hai
nghệ nhân còn thủy chung với tranh Đông Hồ, chúng tôi được nghe về lịch
sử cũng như vận hạn của dòng tranh này. Ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong
ngõ vắng. Tấm biển chỉ "Tranh dân gian Đông Hồ" như lạc lõng giữa một
thế giới đồ nghề hàng mã đủ kiểu.
Cụ Sam tiếp tôi trong phòng khách, nơi treo những sản phẩm tranh Đông
Hồ quý giá của gia đình. Dù đã ngoài 80 nhưng cụ vẫn minh mẫn, tinh anh
lạ thường. Đặc biệt, khi nói về tranh Đông Hồ, cụ bỗng hào hứng hẳn. Có
lẽ, từ rất lâu rồi, nghệ nhân này mới có dịp được trải hết lòng như vậy.
Cụ Sam kể, khi cụ còn để tóc trái đào, cả làng Đông Hồ đều làm tranh,
kẻ mua, người bán tưng bừng. Nhất là những ngày Tết, gần xa, ai cũng tìm
đến làng Đông Hồ mua tranh về treo trong nhà để đón mừng năm mới.
"Xưa, người ta chuộng tranh Đông Hồ không chỉ vì hiếm mà còn bởi nó đã
phản ánh đa dạng đời sống người dân Việt. Từ đánh vật, múa sư tử, hay ý
nghĩa của những bức tấn công trực diện vào những thói hư, tật xấu trong
xã hội như đánh ghen, đám cưới chuột...", cụ Sam cho biết.
Ông Nguyễn Văn Tuân, phó chủ tịch UBND xã Song Hồ.
Cũng theo lời kể của cụ Sam, trong các dòng tranh dân gian như tranh
Hàng Trống (Hà Nội), tranh Kim Hoàng (Hà Tây cũ), tranh làng Sình
(Huế)..., tranh Đông Hồ là loại hình nghệ thuật độc đáo và gần gũi nhất
với nhiều người dân Việt Nam hơn cả. Sở dĩ nó chiếm được vị thế trong
đời sống người Việt bởi gắn liền với làng quê và sinh hoạt thuần hậu của
con người. Cụ Sam cũng cho biết, ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã
nhắc đến tranh Đông Hồ như sản vật "độc nhất vô nhị" của xứ Kinh Bắc.
Trong sách "Bắc Ninh địa dư chí" của cử nhân Đỗ Trọng Vĩ, làm quan Đốc
học Bắc Ninh cuối thế kỷ 19 có ghi, Tiết độ sứ Cao Biền thời Đường sang
cai trị nước ta đóng quân ở Đông Hồ, chia nơi đây làm 5 doanh, sau lập
thành 5 ấp trong đó có Đông Hồ. Cao Biền đã dạy cho dân làng cách làm
hàng mã (trong đó có nghề làm tranh). Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho
rằng, tranh Đông Hồ có thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 9. Sách "Tứ
thời khúc vịnh" của thượng thư Hoàng Sĩ Khải (viết cuối thế kỷ 16) đã kể
đến một số loại tranh thờ: Ngũ hổ, Chung Quỳ (nhân vật thời Đường có
thể bắt ma quỷ); đào phù (vẽ hai vị thần trấn quỷ)...
Giống với con người, tranh Đông Hồ cũng trải qua biết bao thăng trầm,
thịnh suy. Từ cuối thế kỷ 19 tới cách mạng Tháng 8/1945 là thời kỳ cực
thịnh của tranh. Đến những năm kháng chiến, nghề này tạm thời gián đoạn.
Sau ngày đất nước thống nhất, tranh mới có cơ hội "phục sinh". Tuy
nhiên, giữa cơn sóng của thị trường, của các tác phẩm "mỳ ăn liền",
tranh Đông Hồ ngày càng bị phai nhạt. Nhìn niềm tự hào của ông cha dần
lùi vào dĩ vãng, lớp nghệ nhân vàng như cụ Sam không khỏi xót xa. "Tranh
Đông
Hồ ngày nay vẫn giữ nội dung và theo những thao tác thủ công truyền
thống. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh của nhiều loại hình giải trí khác nên
người ta dần quên tranh rồi", cụ tâm sự.
Theo lời giới thiệu của một số người dân Đông Khê, chúng tôi tìm đến
gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế để mong lý giải dấu ấn biến thiên của
lịch sử dòng tranh này. Là nghệ nhân đời thứ 20 theo nghiệp tranh của
gia đình, ông Chế từng táo bạo lập công ty với tên gọi "Trung tâm văn
hóa dân gian truyền thống" để tìm lối thoát cho tranh. Toàn bộ gia sản
tranh được ông gửi gắm cho anh Nguyễn Đăng Tâm - người nối nghề của dòng
họ Nguyễn Đăng tại làng Đông Khê. Tuy nhiên, theo chia sẻ của anh Tâm,
số phận dòng tranh từng "vang bóng một thời" giờ thật hẩm hiu. Tranh
được bán dè dặt, khách du lịch chỉ đến xem tranh chứ ít mua. Người dân
từ lâu đã quên sự hiện diện của "đặc sản" quê hương trong gia đình...
Anh Tâm cũng cho biết, tranh được bán với nhiều loại giá, rẻ nhất là
10 ngàn, bức đắt cũng lên tới bạc triệu. Nhưng đã lâu lắm rồi, chẳng mấy
khi anh làm những bức tranh giá tiền triệu. "Thú thực, mấy năm nay kinh
tế khó khăn, để đảm bảo hoạt động của cơ sở và vì giữ nghề nên tôi còn
làm, chứ tranh bán ế lắm. Những bức giá vài trăm, hầu như khách không
hỏi tới", anh chia sẻ. Quả thực, nhìn đống tranh bày la liệt trên giá,
bản khắc xếp ở góc nhà bị phủ bụi lâu ngày, mạng nhện chăng ngang dọc,
ai nấy đều cảm thấy xót xa.
Tranh Đông Hồ đang chờ ngày... "khai tử"
Trang giấy điệp đang bị thời gian "bào mòn"
Rời nhà của hai nghệ nhân lão làng, tôi lững thững dạo quanh quê hương
của "Đám cưới chuột". Sự tiếc nuối, xót xa choáng ngợp khi một bà cụ
cho chúng tôi hay: "Tranh "chết" rồi cháu ạ. Hàng mã đã đuổi tranh đi".
Ông Nguyễn Văn Tuân, phó chủ tịch UBND xã Song Hồ cho biết: "Làng
tranh Đông Hồ giờ còn có 3 hộ làm thôi. Trong đó, hộ nhà ông Chế làm với
quy mô lớn, hai hộ còn lại cũng chỉ làm túc tắc, cầm chừng". Xót xa hơn
nữa, khi làng tranh từng vang danh khắp cả nước mà giờ, trẻ con cũng
không buồn học nghề, để mặc thời gian và cơ chế thị trường bào mòn, hủy
diệt.
Cũng theo ông Tuân, dù chính quyền địa phương đã tạo nhiều điều kiện
để khuyến khích người dân giữ nghề như cho thuê mặt bằng mở xưởng vẽ,
kiến nghị với ngân hàng chính sách cho vay ưu đãi... nhưng cũng không đủ
sức để giữ được nghề. "Đến nay thì người dân đã chuyển hẳn sang làm
vàng mã. Lãi không nhiều, nhưng đủ sống hơn ôm nghề cũ", ông Tuân nói
thêm.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Hậu từng ngợi ca "hình tượng cùng
tính biểu tượng trong dòng tranh này đã biểu hiện đậm nét bản sắc văn
hóa dân tộc", nhưng rồi ông không khỏi xót xa khi nhìn vào sự "chết mòn"
của tranh Đông Hồ. "Nếu được chọn một dòng tranh đại diện dân tộc thì
đó sẽ là tranh Đông Hồ. Nhưng tiếc thay, chút màu cuối ấy đang phai nhạt
rồi", ông Hậu nói.
Cùng chung nỗi trăn trở này, GS. Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội Văn hóa
Văn nghệ dân gian Việt Nam cho rằng, chính sự du nhập quá nhiều loại
hình văn hóa "Tây" không được chọn lọc kĩ đã át đi sức sống của văn hóa
truyền thống, trong đó có tranh làng Hồ. Theo GS. Tô Ngọc Thanh, để bảo
tồn, nên đưa nghệ thuật tranh Đông Hồ vào một trong những môn học của đồ
họa để người học có thể tìm hiểu, tham khảo. Bên cạnh đó cần có sự đầu
tư, hỗ trợ cho những nghệ nhân làm loại tranh này, nên coi tranh Đông
Hồ là yếu tố văn hóa đặc biệt cần bảo lưu.
Được biết, cuối tháng 9/2004, nhờ sự hỗ trợ của Tổng cục Du lịch, sở
VHTT&DL Bắc Ninh đã khai trương "Phòng tranh Đông Hồ". Tuy nhiên,
những cố gắng cũng chỉ dừng lại ở việc "gắn thêm mác" cho phòng tranh
của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế. Từ đó cho tới nay, câu chuyện về
hướng đi của tranh ĐH vẫn bị bỏ ngỏ, mặc thời gian đẽo gọt và sự già
nua của người giữ nghề.
"Sản vật" độc nhất vô nhị đất Việt
Cụ Nguyễn Hữu Sam cho biết, khi làm tranh, nghệ nhân Đông Hồ
đã sáng tạo chất liệu điệp vẽ trên nền giấy dó (loại giấy được chế từ vỏ
cây dó), tạo nét riêng cho tranh. Vỏ điệp được giã nhỏ thành bột mịn
trộn với hồ quét lên giấy dó. Các loại màu cũng chế từ thiên nhiên sẵn
có ở địa phương. Màu đen từ than lá tre; màu vàng từ hoa hoè... tạo cho
sắc tranh có độ xốp, ấm, lung linh huyền ảo. Các nhà nghiên cứu đánh
giá, trong số hàng trăm dòng tranh dân gian của Trung Quốc, hiếm dòng có
nền điệp như tranh Đông Hồ.
|
Theo: Người Đưa Tin