Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện có khoảng
1.500 làng nghề, trong đó có 300 làng nghề truyền thống, hàng năm mang
lại doanh thu khoảng 600 triệu USD.
Cái lớn hơn
chính là các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống phần lớn được lưu giữ
tại các làng nghề này. Thế nhưng, nguy cơ biến mất của các làng nghề
truyền thống trước sức ép của kinh tế thị trường đang ngày càng hiện
hữu.
Ở làng tranh Đông Hồ, số hộ gia đình có thu nhập cao từ nghề làm hàng mã không hiếm.
Sức ép vô hình
Ngay
giữa Thủ đô Hà Nội, sự lay lắt của nhiều làng nghề truyền thống nổi
tiếng là một thực trạng đáng buồn. Làng nghề chuyên làm giấy cho các
triều đại vua chúa xưa làm sắc phong, làng Nghĩa Đô, hiện chỉ còn duy
nhất nghệ nhân Lại Phú Bàn nhờ có được bí quyết gia truyền. Ông Bàn tuổi
đã cao, chẳng biết truyền lại bí quyết cho ai, khi con cháu trong làng
chẳng mấy người còn muốn theo nghề. Nguy cơ mai một nghề giấy ở làng
Nghĩa Đô là điều khó tránh khỏi. Làng Vòng vốn nổi tiếng với nghề làm
cốm. Trước thời kỳ đổi mới, hơn 80% người dân làng Vòng làm cốm, nay chỉ
còn lại số người đếm trên đầu ngón tay.
Các
làng nghề truyền thống như làng đồng Ngũ Xá, làng thuốc nam Đại Yên (Hà
Nội), tranh Kim Hoàng (Hà Tây cũ), tranh làng Sình (Huế),... cũng đang
trong tình trạng “sống dở chết dở”. Nhà ông lang gia truyền Vũ Văn Sử ở
làng Đại Yên tuy vẫn còn túc tắc bắt mạch, kê đơn cho một số người già,
nhưng cũng chỉ làm tranh thủ kiếm thêm, âu cũng là việc cho đỡ nhớ nghề
mà thôi. Làng tranh Hàng Trống, nổi tiếng một thời với những nét văn hóa
Hà thành, nhưng hiện nay được xem là một “vẻ đẹp bị lãng quên”. Dẫu
biết rằng trong mỗi bức tranh Hàng Trống đựng những nét độc đáo và ý
nghĩa nhân văn sâu sắc của người dân chốn kinh kỳ xưa, rất cần được bảo
tồn và phát huy giá trị. Ông Kiều Văn Hiền, chủ cửa hàng của dòng tranh
dân gian này cho biết: Cách đây vài năm trên phố Hàng Trống còn có vài
nhà bán tranh nhưng nay không còn nữa. Trước kia, cứ mỗi độ Tết đến
xuân về, mỗi gia đình Hà Nội lại tìm mua một bức tranh Hàng Trống như
một lời cầu chúc cho năm mới bình an thuận hòa. Còn bây giờ, trên con
phố Hàng Trống chỉ còn lại một cửa hàng duy nhất của ông bán loại tranh
này ở địa chỉ số 44 Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Nghệ
nhân duy nhất còn lại của tranh Hàng Trống, ông Lê Đình Nghiên tâm sự:
“Đến bây giờ tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng về sự biến mất nhanh chóng của
cả một dòng tranh dân gian nổi tiếng một thời. Hiện người ta chỉ còn
thấy nó trong những viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của các bậc cao
niên”. Cũng theo ông Nghiên, chỉ trong vòng 50 năm mà trong những gian
hàng lưu niệm bày dọc các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, thậm chí ngay cả
trong những cửa hàng bán tranh trên phố Hàng Trống đều không còn xuất
hiện bóng dáng của dòng tranh này.
Xa hơn đôi chút, làng tranh
Đông Hồ ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, bây giờ phần sáng tác mẫu
mới xem ra không còn. Có chăng chỉ là in sao lại các mẫu tranh cũ do
ông cha để lại. Phần lớn người dân ở đây từ nhiều năm nay đã chuyển sang
in sớ, vàng mã, tiền âm phủ, mặt nạ đủ các loại... Được biết, làng Đông
Hồ hiện chỉ còn vài gia đình làm tranh cổ, nhưng chủ yếu là người cao
tuổi gắn bó với nghề như gia đình cụ Nguyễn Hữu Sam, ông Nguyễn Đăng
Chế, hiện nay cũng đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy”.
Số người dân làng Vòng làm cốm hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đâu rồi sắc màu dân tộc?
Làng
cổ và nghề cổ là một mô thức văn hóa đã định hình trong lịch sử tồn tại
và phát triển của một cộng đồng người sống trong một không gian nhất
định. Trong xu hướng hội nhập hiện nay của nước ta, dù cho mô thức văn
hóa ấy có bền chặt và tốt đẹp đến đâu cũng khó tránh khỏi nguy cơ bị xô
lệch, biến dạng, thậm chí bị phá vỡ từ sức ép của sự phát triển, như một
tất yếu khách quan.
Vẫn biết rằng, trước đây các thế hệ ông bà,
cha mẹ chỉ quen sống trong lũy tre làng, còn nay nhiều “trai quê”, “gái
làng” đã ra TP, thậm chí là ra nước ngoài để học tập, lao động với đủ
thứ nghề. Đối với lớp trẻ hiện nay, phần lớn đã quen với quần âu, quần
jeans, áo phông, váy ngắn và dường như đã quên dần áo cánh nâu sồng,
quần ống, khăn mỏ quạ,... Ấy là chưa kể đến các tệ nạn xã hội cũng đang
ùa vào các làng cổ.
Một nghệ nhân làng Đông Hồ đang làm khuôn tranh.
Anh
Nguyễn Đăng Tâm, con trai nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế ở làng Đông Hồ cho
biết: Ở làng Đông Hồ, hàng mã chẳng thiếu thứ gì. Số hộ gia đình có thu
nhập từ 100 triệu đồng đến vài tỷ đồng mỗi năm từ nghề làm hàng mã không
còn là chuyện hiếm. Nếu như những năm 1995, số hộ trong xã có xe máy
chỉ đếm trên đầu ngón tay, nay mỗi nhà có từ 2- 3 chiếc là chuyện
thường, cả xã đã có 35 gia đình mua được ôtô, trong đó có nhiều xế hộp
lên tới cả tỷ đồng. Còn anh Nguyễn Đăng Nhân, GĐ một Cty mang tên “Trung
tâm văn hóa dân gian truyền thống” ở Đông Hồ nói: “Thú thực, mấy năm
nay kinh tế khó khăn, việc đảm bảo hoạt động của Cty và vì giữ nghề nên
còn làm, chứ tranh bán ế lắm. Những bức tranh giá vài trăm nghìn đồng,
hầu như khách không hỏi tới, nói gì đến tranh tiền triệu”. Một cụ bà
trong làng ngao ngán chép miệng khi gặp khách đến mua tranh: “Tranh chết
rồi cháu ạ. Hàng mã đã đuổi tranh đi…”. Còn cụ Sam, một trong hai nghệ
nhân cao niên nhất làng nghẹn ngào và chua chát: “Tranh Đông Hồ ngày nay
vẫn giữ nội dung và thực hiện những thao tác thủ công truyền thống ấy,
nhưng do sự cạnh tranh của nhiều loại hình giải trí khác, nên người ta
quên tranh Đông Hồ rồi...”.
Phó Chủ tịch UBND xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ông Nguyễn Văn Tuân cho biết: “Làng tranh
Đông Hồ giờ chỉ còn tiếng thôi, chứ thực thì chỉ còn có 3 hộ làm, trong
đó có 1 hộ làm với quy mô lớn, 2 hộ còn lại cũng chỉ làm túc tắc, mặc dù
chính quyền địa phương đã tạo điều kiện để khuyến khích người dân giữ
nghề, nhưng xem ra cũng khó”. Có lẽ nhận định của Trưởng phòng VH-TT
huyện Thuận Thành, ông Lê Xuân Bắc sẽ cho chúng ta một câu trả lời tuy
chua chát nhưng có vẻ sát với thực tế không chỉ với làng tranh Đông Hồ,
mà còn với nhiều làng nghề trong cả nước: “Gần chục năm về trước, các hộ
trong làng lần lượt bỏ tranh hoặc làm cầm chừng, đến nay thì họ đã
chuyển hẳn sang làm hàng mã. Lãi không nhiều, nhưng còn đủ sống, thế
cũng là điều đáng mừng rồi…” (!)
Theo: PL & XH