Chúng tôi biết đến nghề chế tác các sản phẩm
tranh, mỹ nghệ bằng than đá qua sự giới thiệu của một cô bạn làm ở đài truyền
hình tỉnh Quảng Ninh.
Tuy nhiên, khi về miền đất
mỏ, hỏi về cái nghề đầy tính nghệ thuật này, hầu hết mọi người đều ngơ ngác,
lắc đầu. Họ cho chúng tôi biết, tranh than đá giờ chỉ còn trong trí tưởng tượng
của mỗi người dân đất mỏ... Trên đường về, tạt vào một quán nước ven đường,
thật may mắn, chúng tôi gặp được nghệ nhân cuối cùng ở TP. Hạ Long còn giữ được
cái nghề đã tồn tại hơn trăm năm.
Nghệ thuật khởi
sinh từ những khối than sù sì
Đến vùng mỏ Quảng Ninh,
thực sự chúng tôi chỉ hình dung ra những khu hầm than đâm ngang bổ dọc dưới
lòng đất và những khuôn mặt lấm lem, nhem nhuốc của những người công nhân trên
công trường khai thác. Tuy nhiên, thật bất ngờ, trên mảnh đất trùng điệp than
đá ấy lại có một nghề được gọi với cái tên: mỹ nghệ than đá. Và, mấy trăm năm
qua, nó đã thở thành bản sắc văn hóa riêng biệt của người dân vùng mỏ.
Trên mảnh đất Quảng Ninh,
đâu đâu cũng thấy những công trường khai thác than và tiếng ô tô, máy xúc nổ
vang suốt đêm ngày. Lẫn trong những đám người đông đúc đang lấy than ở một công
trường thuộc huyện Cẩm Phả, chúng tôi thấy một người đàn bà khoảng 60 tuổi cứ
đi lại ở những đống than đen bóng.
Thỉnh thoảng, bà lại khom
người, nhặt những hòn than đen nhánh lên ngắm nghía, gật gù vẻ đắc ý. Khi đã
quá giờ trưa, bà chọn được một hòn than vuông vức to bằng viên gạch rồi gói cẩn
thận vào bao tải đặt lên xe đạp đưa về nhà.
Thấy chúng tôi tò mò, một
người đàn ông trung niên lắc đầu bảo: "Giờ người ta vào lò than, cố đào
được càng nhiều than càng tốt để đem đi bán. Một ngày có khi họ kiếm cả triệu
đồng chứ ai còn loay hoay nhặt than cục rồi đẽo tượng, chế tranh nữa. Có khi,
hì hụi cả mấy ngày cũng chẳng bán được mấy trăm nghìn đồng. Bà ấy rõ là gàn
dở!". Ấy vậy mà theo lời của nhiều người dân quanh công trường than này,
người đàn bà mà chúng tôi vừa quan sát thấy đã đến đây nhặt than từ mấy chục
năm nay. Mỗi tuần bà chỉ đến lấy than một lần rồi đem về Hạ Long chế tác tranh.
Một sản phẩm hoàn chỉnh nhìn bóng mịn, đẹp mắt.
Đến nay,
nhiều người dân Quảng Ninh vẫn còn cất giữ trong tâm trí của mình hình ảnh về
những sản phẩm mỹ nghệ than đá nức tiếng một thời. Mỗi khi khách du lịch đến
Quảng Ninh, họ thường muốn mua một "đặc sản" gì đó làm kỷ niệm. Nhưng
chẳng lẽ lại đi ôm cả khối than thô kệch về nhà. Vậy là họ tìm đến những sản
phẩm làm từ than đá. Đó là con trâu, con hổ, cái vòng, bức tranh... được người
nghệ nhân duy nhất thổi hồn vào.
Sau thời
gian hỏi đường, khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được đến xưởng chế tác mỹ nghệ
than đá của gia đình bà Phan Thị Cộng (ở đường Lê Thánh Tông, TP. Hạ Long). Bà
là gia đình cuối cùng ở TP. Hạ Long còn giữ được nghề truyền thống của cha ông
để lại. Nhìn những tác phẩm như sư tử, con trâu, bức tranh Hạ Long, hòn trống
mái... được chế tác với những đường nét tinh tế, tỉ mỉ đủ thấy được sức sáng
tạo của người thợ chế tác than đá.
Thấy
chúng tôi nhìn ngắm say sưa những sản phẩm của mình làm ra, bà Cộng tâm đắc
lắm. Bà nhấc một sản phẩm lên và giới thiệu: "Sản phẩm mỹ nghệ và tranh
bằng than đá có độ cứng như các đồ gốm, sứ nên có thể để trường tồn qua thời
gian. Để sản phẩm có được độ bền cao, người thợ chế tác phải dày công đi tìm
phôi đá. Ở Quảng Ninh chỉ có 3 nơi là Đèo Nai, Cao Sơn, Cẩm Phả là có phôi đá
cứng, than đẹp có thể làm được tranh".
Theo bà
Cộng, khi tìm được những khối than đá có chất lượng tốt, các nghệ nhân phải đem
cưa máy đi xẻ thành từng khối. Sau khi xẻ được phôi, họ đem về cắt nhỏ ra thành
từng khối theo yêu cầu chế tác. Phôi than chất lượng cao là khối than phải đặc,
đen. Khi quan sát bằng mắt thường không thấy có những vân, mạch đứt gãy xuyên
ngang, dọc. Nếu lấy phải than kém chất lượng thì coi như việc chế tác thành
công cốc. Bởi khi đẽo gọt, khối than sẽ bị gãy, nứt...
Nghệ nhân
cuối cùng của tranh than đá chia sẻ, khi lấy than về, người thợ phải dùng những
dụng cụ như dao gọt, dùi để tạo hình cho sản phẩm. Khi công đoạn này hoàn tất,
nghệ nhân phải đánh giấy ráp để sản phẩm nhẵn hơn. "Đánh giấy ráp xong,
chúng tôi tiếp tục dùng vải lụa đánh lại để sản phẩm bóng mịn. Trong quá trình
chế tác, khâu khó khăn và mất thời gian nhất là việc tạo hình và đẽo gọt các
đường nét nhỏ. Nếu khi đẽo, gọt mà không may làm vỡ một chi tiết nhỏ thì coi
như sản phẩm hỏng hoàn toàn".
Bà Cộng
dẫn chứng, khi làm con sư tử, khó nhất là gọt phần bờm, phải làm cho nó giống như
thật. Khi lia dao gọt qua những đường cong của bờm, lỡ tay cứa vỡ những chỗ
khác, dẫu mảng đó chỉ bằng một nửa móng tay thì sản phẩm sẽ không bán được. Vì
sự tỉ mỉ, tốn nhiều công sức nên một người thợ lành nghề phải mất một tuần mới
làm được một sản phẩm. Còn đối với những người thợ mới vào nghề, họ có thể phải
bỏ ra 3 tuần, thậm chí vài tháng trời.
Bà Phan Thị Cộng bên một sản phẩm vừa đẽo gọt xong.
Làm chỉ để giữ nghề
Chúng tôi tìm gặp ông
Nguyễn Xuân Nguyên (70 tuổi ở đường 25/4, TP. Hạ Long), một người am hiểu về
chế tác tranh bằng than đá. Theo ông Nguyên, nghề chế tác mỹ nghệ than đá đã
xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, do người Pháp du nhập vào. Ngay sau đó, người Pháp
đã cho mở một xưởng chuyên chế tác tranh, mỹ nghệ than đá để đem về đất nước
họ. Khi mở xưởng chế tác tranh, người Pháp cũng đã mở một số lớp dạy nghề cho
dân bản địa học.
Năm 1954, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, thực dân Pháp thua trận và rút khỏi miền Bắc. Cùng với đó, những
xưởng chế tác tranh than đá cũng bị giải thể. Một thời gian sau, những người
thợ chế tác tranh đá quí được trở lại với nghề bằng việc tham gia vào HTX Hồng
Gai. HTX này chuyên chế tác tranh, mỹ nghệ than đá. Tuy nhiên, do hoạt động
không hiệu quả, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được... đến năm 1986, HTX Hồng
Gai giải thể. Những người làm nghề chế tác tranh đá quí tách riêng ra để làm
ăn. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian, cái nghề này đã mai một và dường như mất
tích. Bởi lợi ích kinh tế nó đem lại không cao.
Gia đình bà Phan Thị Cộng
gắn bó với nghề mỹ nghệ than đá đến nay đã quá ba đời người. Tâm sự với chúng
tôi, bà bảo: "Gia đình tôi bám trụ cái nghề lắm truân chuyên này từ khi nó
mới xuất hiện và gìn giữ đến tận bây giờ. Nhưng có lẽ đời con, cháu tôi sẽ
không giữ được cái nghề độc hại, hao công tốn sức này nữa. Bởi, muốn làm nghề
này phải có công cụ bảo vệ sức khỏe như máy hút bụi, khẩu trang... Nếu không,
người tiếp xúc với than đá sẽ bị viêm phổi.
Trước đây nhiều người làm
nghề phải đi đến bệnh viện rửa phổi định kỳ để tránh viêm phổi do bụi than bay
vào. Chính vì thế mà lớp con cháu bây giờ chẳng ai muốn làm nghề truyền thống
này nữa". Hiện gia đình bà Cộng, chỉ có 6 cụ già đã 70 - 80 tuổi phụ giúp
bà làm tranh than đá. Vì tuổi cao sức yếu, mỗi ngày họ chỉ làm 2 tiếng đồng hồ.
Họ làm không phải kiếm kế mưu sinh mà chỉ để gìn giữ nghề cho con cháu sau này.
Và, từ khi HTX Hồng Gai giải tán, bà Cộng là người vẫn trụ lại được với tranh
than đá. Thỉnh thoảng buồn chân, tay, bà lại lóc cóc đạp xe đi tìm than đá và
vận động con, cháu học chế tác tranh, mỹ nghệ than đá. Người đàn bà này quyết
tâm không để nghề lạc vào dĩ vãng...
Khách du lịch
nước ngoài xin "bái sư học đạo"
Theo bà Phan Thị Cộng
thì hiện nay, mỗi sản phẩm tranh, mỹ nghệ than đá có giá trung bình khoảng
350 ngàn đồng. Khách hàng mua những sản phẩm này chủ yếu là khách du lịch
vãng lai. Số lượng sản phẩm được bán ra không nhiều. Gia đình bà chỉ làm theo
kiểu "cầm hơi" để giữ nghề chứ không muốn phát triển ra thị trường.
Bà Cộng cho biết, hạnh phúc lớn nhất từ khi làm nghề của bà là được một khách
du lịch nước Mỹ đến xin làm "đệ tử" truyền nghề. Tuy nhiên, dù rất
tâm huyết nhưng do điều kiện công việc, người này đã phải về nước. Thỉnh
thoảng sang Việt Nam công tác, "đệ tử" của bà lại ghé qua xưởng chế
tác của "sư phụ" và cùng điêu khắc tranh than đá.
|
Theo: Người Đưa Tin