Hoạt động tôn tạo, bảo
tồn và phát huy giá trị di tích trong thời gian qua còn không ít bất
cập, nhiều vụ việc đến nay vẫn gây bức xúc trong dư luận. Theo các
chuyên gia về bảo tồn di sản, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên là
tôn tạo quá đà, lạm dụng việc xây mới di tích bởi người làm công tác
quản lý, tu bổ di tích thiếu tâm, thiếu tầm…
Trùng tu quá tay, tôn tạo quá đà
Phân tích các văn bản pháp luật hiện
nay, GS Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội đồng di sản văn hóa quốc gia cho
rằng, so với các hiến chương, văn kiện quốc tế, văn bản quy định về bảo
vệ, bảo tồn, tu bổ, phục hồi di tích của Việt Nam rõ chi tiết, cụ thể
hơn. Chẳng hạn, Thông tư số 18/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quy định rõ các tổ chức, cá nhân khi tham gia lập quy hoạch, dự án tu bổ
di tích phải có chứng chỉ hành nghề… Tuy nhiên, vi phạm trong hoạt động
bảo tồn di tích thường xuyên xảy ra. Theo ông Lưu Trần Tiêu, nguyên
nhân là một bộ phận không nhỏ người dân và cả người tham gia công tác
quản lý, bảo tồn nhận thức không đầy đủ, không đúng về giá trị di tích.
Mục đích của bảo tồn là kéo dài tuổi thọ của công trình, thể hiện được
giá trị tiềm ẩn của di tích gốc. Tuy thế, tâm lý khá phổ biến hiện nay,
thể hiện ở một số địa phương có dự án bảo tồn, là muốn làm mới di tích,
thậm chí là làm với quy mô hoành tráng.
|
Việc “nâng đời” chùa Trăm Gian để lại bài học đau xót về công tác bảo tồn, tôn tạo di tích.
|
GS.KTS Hoàng Đạo Kính, Ủy viên Hội đồng
Di sản văn hóa quốc gia, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Chủ
tịch Hội đồng Kiến trúc, nói: "Chúng ta đang trùng tu quá tay, tôn tạo
quá đà. Ở Huế, hiện có nhiều lăng tẩm đang bị đổ nát, cần tu bổ nhưng
người ta lại bỏ tiền ra để khôi phục khu Trường Lang - kiến trúc phụ,
thậm chí còn sơn son thếp vàng rất tốn kém". Theo GS Hoàng Đạo Kính, căn
bệnh "nâng đời di tích" đang tồn tại là nguyên nhân chủ yếu khiến di
tích mới ngày một nhiều lên. Mặt khác, theo PGS Phạm Mai Hùng, Ủy viên
Hội đồng di sản văn hóa quốc gia, trước đây triều đình ban sắc phong cho
di tích bao giờ cũng kèm theo ruộng đất để lấy nguồn lực nâng cấp, giữ
gìn di tích. Còn hiện nay, việc công nhận di tích đơn giản chỉ là một
tấm bằng mà thôi. Di tích không có kinh phí "bảo dưỡng" thường xuyên,
tất yếu nhanh xuống cấp, hư hỏng nặng, mà khi đã bị hư hỏng, biến dạng
thì rất khó có thể tu bổ, phục dựng lại như cũ.
Đề cao tính chuyên nghiệp
Trong khi phong trào "nâng đời di tích"
diễn ra ở nhiều địa phương, điều gây quan ngại là một số di tích quan
trọng lại chưa nhận được sự quan tâm thỏa đáng. Khi khu di tích thành cổ
ở Ninh Bình được phát hiện, người ta có làm mái che, hiệu quả bảo vệ,
bảo tồn đến đâu không rõ, chỉ biết di tích giờ như hố bùn. Về thực trạng
này, PGS Phạm Mai Hùng cho rằng, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của một số
người tham gia công tác quản lý, bảo tồn còn đáng lo ngại hơn cả thiếu
tiền, thiếu thợ, thiếu chính sách… Thiếu đạo đức nghề nghiệp nên mới có
chuyện người làm công tác khảo cổ cũng tham gia vào công tác bảo tồn,
tôn tạo di tích; thiếu đạo đức nghề nghiệp nên đình Ngu Nhuế (Hưng Yên)
mới bị phá sập, rồi di chuyển sang vị trí mới; Thành nhà Mạc (Tuyên
Quang) mới biến thành "lò gạch"…
Chia di tích thành hai nhóm (di tích
"chết" và di tích "sống"), KTS Hoàng Đạo Kính kiến nghị: "Các cơ quan
chức năng cần rà soát tất cả di tích để phân cấp bảo tồn, tôn tạo, từ đó
có cách ứng xử phù hợp. Di tích "sống" cần được quan tâm tu bổ, tôn
tạo; với di tích "chết", nên giảm thiểu việc xây dựng thêm công trình
phụ trợ, bởi cái chúng ta muốn lưu giữ chính là những dấu ấn lịch sử mà
di tích đó là chứng nhân". Ủng hộ quan điểm này, KTS Phạm Thanh Tùng
(Hội Kiến trúc sư Việt Nam) đưa ra ý kiến: "Chúng ta cần có đội ngũ
chuyên nghiệp làm công tác bảo tồn di tích. Cả nước hiện có tới 20
trường đào tạo kiến trúc sư nhưng chưa có trường nào đào tạo kiến trúc
sư bảo tồn. Đó là hạn chế lớn".
Dưới góc nhìn của người làm công tác
quản lý di tích nhiều năm, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam TS
Đặng Văn Bài khẳng định: Tu bổ, tôn tạo di tích khác với xây dựng cơ
bản. Trước khi tiến hành tu bổ, tôn tạo, phải xây dựng quy hoạch tổng
thể, quy hoạch chi tiết; phải tiến hành trao đổi rộng rãi để có thể tạo
ra được sự đồng thuận tương đối.
Trên thực tế, hoạt động tôn tạo, xây mới
di tích đã được thực hiện từ lâu. Ví dụ, Văn Miếu - Quốc Tử Giám được
xây dựng năm 1070 dưới triều Lý, được mở rộng vào năm 1253 đời Trần, bổ
sung bia tiến sĩ năm 1484 thời Lê sơ, xây dựng Khuê Văn Các vào năm 1805
dưới thời Nguyễn… Thực tế cho thấy dù là thời nào, triều đại nào thì di
tích cũng có sự "vận động" nhất định. Điều quan trọng là việc tôn tạo,
xây mới phải hướng tới mục tiêu cơ bản, có ý nghĩa bao trùm là giữ được
phần hồn, phần tinh túy của di tích và được cộng đồng chấp nhận.
Theo: Hanoimoi