Từ lâu Quảng Uyên được du khách biết đến
là một miền đất đậm nét văn hóa dân tộc. Nơi đây không những có cảnh
quan thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện mà còn là mảnh đất của
nền văn hóa truyền thống với những làn điệu dân ca, đặc biệt là những
làng nghề thủ công nổi tiếng, như: rèn, dệt, nhuộm vải Phúc Sen, hương
Phja Thắp, ngói máng Tự Do, đan lát tre, nứa ở Quốc Dân... Mỗi làng nghề
chứa đựng một ý nghĩa, một nét đẹp riêng.
Xưởng rèn của gia đình ông Tô Văn Thành, xóm Pác Rằng, xã Phúc Sen (Quảng Uyên). Ảnh: Minh Tuyền
Nét đẹp mỗi làng nghề
Bên cạnh thiên nhiên ưu đãi đất đai màu mỡ, người dân Quảng Uyên với
truyền thống cần cù, qua quá trình lao động, với bàn tay khéo léo và
khối óc sáng tạo từ xa xưa đã xây dựng và phát triển nhiều nghề, làng
nghề truyền thống tiêu biểu cho vùng nông thôn thuần túy nông nghiệp của
đồng bào nơi đây. Về Quảng Uyên, chúng tôi đến với xã Phúc Sen - “chiếc
nôi” của nhiều nghề truyền thống của đồng bào Nùng An. Phúc Sen được
biết đến với nhiều nghề truyền thống, như: rèn nông cụ, nhuộm vải chàm,
dệt vải...
Có lẽ nghề truyền thống đặc sắc đầu tiên của Phúc Sen phải kể đến là
nghề rèn nông cụ. Nghệ thuật rèn nông cụ ở đây đã phát triển lên một
đỉnh cao rực rỡ với sự góp mặt của nhiều đời nghệ nhân. Các thợ rèn đều
tuân thủ theo một quy trình từ khâu chọn nguyên liệu đến kỹ thuật đốt
lửa, quai búa… cộng với bí quyết riêng để tạo nên những sản phẩm nông cụ
bền, đẹp, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Ông Nông Văn Lợi, xóm Pác Rằng - có kinh nghiệm hơn 30 năm làm rèn
cho biết: Hiện cả xã có 6/10 xóm với 157 hộ làm nghề rèn, trong đó có
358 thợ lành nghề và hàng trăm thợ phụ, mỗi năm sản xuất khoảng 100.000
sản phẩm nông cụ các loại. Nhiều gia đình làm rèn, nhưng mỗi gia đình
đều có bí truyền riêng để làm ra sản phẩm bền, đẹp nên từ xưa đến nay,
những sản phẩm rèn của Phúc Sen làm ra đều được khách hàng ưa chuộng.
Những năm gần đây, Phúc Sen không chỉ được biết đến là một địa chỉ sản
xuất nông cụ nổi tiếng mà còn là điểm đến của nhiều du khách trong và
ngoài nước đến trải nghiệm, khám phá.
Dưới sàn nhà, bên lò rèn đỏ lửa, những người đàn ông, con trai tay
đe, tay búa nhịp nhàng vang tiếng leng keng, trên nhà, chị em phụ nữ đảm
đang bên khung cửi tay thoi, tay quay dệt vải. Bà Nông Thị Sầu, xóm Đâư
Cọ, xã Phúc Sen hơn 70 tuổi nhưng chưa ngày nào bà muốn rời khung cửi.
Nhanh tay quay thoi, bà vừa làm vừa bộc bạch: Tôi biết dệt vải từ khi
còn là một cô bé chăn trâu.
Thời đó, cả vùng Quốc Dân, Đoài Khôn, Phúc Sen (Quảng Uyên), nhà nhà
có khung cửi, phụ nữ, con gái từ già tới trẻ ai cũng biết dệt. Con gái
trước khi lấy chồng phải tự dệt vải, cắt, khâu quần áo để mang về nhà
chồng. Có nhà có tới 2 - 3 khung cửi, nhà càng có nhiều con gái càng
nhiều khung cửi. Bây giờ vải vóc có nhiều, quần áo rẻ nên bà con dần dần
không dệt vải nữa.
Tuy nhiên, riêng vùng Phúc Sen đồng bào Nùng An vẫn giữ được nét văn
hóa truyền thống là mặc quần áo chàm của dân tộc mình, nên đến nay vẫn
còn khá nhiều hộ vẫn duy trì nghề dệt vải, nhuộm chàm. Riêng xóm Đâư Cọ
(có 60 hộ) cơ bản bà con vẫn còn giữ nghề dệt để phục vụ nhu cầu của
đồng bào mình.
Mang theo âm thanh rộn rã của làng nghề Phúc Sen, chúng tôi đến làng
làm hương Phja Thắp, xã Quốc Dân và làng đan lát Lạn Dưới, xã Đoài Khôn.
Phja Thắp là làng làm hương từ lâu đời, được nối tiếp qua nhiều thế hệ.
Hiện, cả 51 hộ dân trong làng đều làm hương với một “cái tâm” trong
sáng với nghề: không cẩu thả, không làm kém chất lượng.
Cũng vì lẽ đó mà trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng
đến nay nghề làm hương ở Phja Thắp vẫn tồn tại và góp phần nâng cao thu
nhập cho bà con. Còn làng đan lát Lạn Dưới cũng nổi tiếng bởi các sản
phẩm đan lát từ tre, nứa. Ông Vương Văn Đại biết đan lát từ năm 12 tuổi,
nay đã gần 60 tuổi, đôi tay ông không biết đã làm ra bao nhiêu sản phẩm
mây tre, từ lồng gà, vịt đến những đôi sọt gánh, bồ đựng thóc...
Ông Đại tâm sự: Sản phẩm đan lát của xóm Lạn Dưới rất được người tiêu
dùng trong vùng ưa chuộng. Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 8 âm lịch là
thời điểm những sản phẩm, như: sọt gánh, bồ đựng thóc bán được nhiều
nhất. Có những phiên chợ cả làng mang ra chợ bán hàng trăm đôi sọt, bồ
đựng thóc, với giá 100 - 120 nghìn đồng/đôi. Nghề đan lát này không
những góp phần đem lại thu nhập cho người dân mà còn gìn giữ nét đặc
trưng của dân tộc, một phong tục, tập quán canh tác nông nghiệp lâu đời
của bà con.
Về làng nghề ở Quảng Uyên phải kể đến nghề làm ngói máng ở xã Tự Do.
Sản phẩm ngói máng Tự Do nổi tiếng vừa bền, vừa đẹp, không chỉ tiêu thụ
trong vùng mà vượt ra cả các huyện trong tỉnh, như: Phục Hòa, Thạch An,
Trùng Khánh, Trà Lĩnh... Gọi là ngói Tự Do nhưng thực chất chỉ có 3 xóm
của xã làm ngói, gồm: Lũng Rì, Lũng Các, Kéo Rỏn. Bởi chỉ ở những xóm
này mới có được loại đất làm ra viên ngói đẹp, bền hàng trăm năm không
hỏng.
Theo người dân xóm Lũng Rì, để làm ra được viên ngói, họ phải lấy
được 3 loại đất đào sâu hơn chục mét mới có, gồm: đất đen, đất đỏ, đất
sét về trộn với nhau theo một tỷ lệ nhất định rồi cho trâu dẫm, nhào 3 -
4 ngày mới có thể lên khuôn làm viên ngói. Sau đó đem vào lò nung 4 - 5
ngày nữa mới thành phẩm. Viên ngói đẹp, bền phải có màu đỏ đẹp, không
cong, vênh và điều này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm làm lâu năm
cũng như bí quyết pha trộn đất.
Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống
Có thể thấy, những làng nghề truyền thống của Quảng Uyên không chỉ
tạo được dấu ấn bởi sản phẩm tinh xảo được kết tinh từ đôi bàn tay khéo
léo của người dân, mà qua quá trình lao động đã tạo nên tinh thần đoàn
kết cộng đồng. Họ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để gìn giữ
nghề của cha ông mình, cũng là gìn giữ nét văn hóa truyền thống riêng
của họ.
Theo ông Hoàng Văn Kim, xóm Phja Thắp, nghề làm hương của xóm có từ
ngàn xưa, chúng tôi là thế hệ con cháu, phải có trách nhiệm gìn giữ và
phát huy nghề truyền thống mà cha ông để lại.
Tuy nhiên, với cơ chế thị trường hiện nay, việc sản xuất ra được sản
phẩm truyền thống là cả quá trình lao động vất vả, việc tìm kiếm thị
trường và tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn gấp bội lần. Vì vậy, gìn giữ
được nghề truyền thống cho đến ngày nay là cả quá trình nỗ lực của tập
thể cộng đồng dân cư.
Bên cạnh một số nghề thủ công truyền thống như rèn nông cụ, làm
hương của đồng bào vẫn được trao truyền đến ngày nay, có nhiều nghề bị
mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất, do không đủ sức cạnh tranh với
các sản phẩm sản xuất hàng loạt trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Nguyên nhân của sự mai một do bà con bản địa thay đổi phong tục quê
hương, không còn mặc trang phục dân tộc, cùng với đó thị trường tràn lan
các mặt hàng vải vóc, quần áo cả trong và ngoài nước với giá rẻ nên bà
con không còn “mặn mà” với nghề dệt vải, nhuộm chàm. Hoặc như nghề làm
ngói, thời điểm hưng thịnh nhất vào các năm 1979 - 1985, ngói Tự Do có
mặt ở khắp các huyện trong tỉnh và nhiều địa phương khác.
Ngày nay, ngói Tự Do đang phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt của các
sản phẩm phibrô xi măng, tôn nội, ngoại trên thị trường. Hay như nghề
đan lát ở Lạn Trên, Lạn Dưới, xã Đoài Khôn đã có cách đây hàng trăm năm,
đến nay cũng đang đứng trước nguy cơ thất truyền bởi các sản phẩm từ
nhựa được bày bán tràn lan, lại gọn nhẹ, tiện lợi hơn, nên nhu cầu về
sản phẩm từ tre, nứa giảm.
Nghề đan lát trở thành việc làm thời vụ.Việc gìn giữ, phát triển nghề
thủ công truyền thống không chỉ có giá trị về kinh tế, mang lại thu
nhập cho bà con, mà còn là một trong những yếu tố rất quan trọng để gìn
giữ văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, nghề và làng nghề truyền thống là một bộ
phận cấu thành văn hóa dân gian, chứa đựng nhiều yếu tố bản sắc dân tộc.
Mỗi nghề thủ công truyền thống của các dân tộc sinh ra và phát triển
đều có câu chuyện, có tuồng tích, gửi gắm trong đó những lời răn dạy,
những kiến thức của tiền nhân.Tuy nhiên, đến nay không riêng gì các làng
nghề ở huyện Quảng Uyên mà tất cả các làng nghề truyền thống trên địa
bàn tỉnh đều chưa có được sự quan tâm, đầu tư đúng mức để bảo tồn.
Thiết nghĩ, việc khôi phục và phát triển nghề, làng nghề truyền thống
là cần thiết và cần có cơ chế chính sách hợp lý. Việc phát triển các
sản phẩm nghề và làng nghề phải phù hợp với đời sống xã hội, gắn với thị
trường tiêu thụ, phải có chính sách hỗ trợ gắn liền với tuyên truyền
quảng bá sản phẩm, thương hiệu, gắn làng nghề với những địa danh, địa
chỉ văn hóa du lịch...; giới thiệu rộng rãi và đưa sản phẩm thủ công
truyền thống đến khách hàng, du khách trong và ngoài nước, để những nghề
và làng nghề trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được gìn giữ và
phát triển, góp phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của
đồng bào các dân tộc.
Theo: Báo Cao Bằng