Bức tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay chùa
Hội Hạ, hiện lưu tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tiêu biểu cho di sản mỹ
thuật Phật giáo thời Lê Trung hưng.
Gian nan dời tượng quý
![](http://www.thanhnien.com.vn/Pictures201401/Thanh_Luan/3/quanam.jpg)
Tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay chùa Hội Hạ, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật - Ảnh: Ngọc Thắng
|
Nhà nghiên cứu Trần Thức không bao giờ quên nhiệm vụ trọng đại mà
Viện trưởng Viện Mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung giao cho mình hồi năm 1964. Ông
Cung mời ông Thức lên và nói: “Nhờ đồng chí lên chùa Hội Hạ, xã Hợp
Thịnh, huyện Tam Dương, Vĩnh Yên, nơi có pho tượng Phật bà Quan âm khá
đẹp. Tôi đã có dịp xem và tìm hiểu, mời đồng chí đến xem, nghiên cứu;
nếu thấy được thì ta đề nghị nhà chùa và địa phương nhường cho Bảo tàng
Mỹ thuật đưa về Hà Nội giới thiệu với nhân dân và quốc tế thì thật tốt”.
Sau đó, ông Thức bắt đầu một cuộc “dân vận” vài tuần. Nhà chùa, người
dân và địa phương cuối cùng cũng đồng ý. Công việc tiếp theo khó khăn
không kém là dỡ tòa tượng để chuyển về. “Tôi trình bày với ông viện
trưởng cần phải có một thợ mộc giỏi lên điều khiển tháo dỡ tác phẩm mới
an toàn. Thật may mắn, bảo tàng đang có một thợ mộc lão luyện là bác Cai
Tường, vốn là thợ bậc cao, kỹ thuật 7/7 của hãng đồ gỗ nổi tiếng Mémo
trước cách mạng. Bác Tường đã hoàn thành xuất sắc việc tháo dỡ tòa tượng
cổ”, ông Thức nhớ lại.
Nhưng ngay cả khi tượng về đến bảo tàng, những công tác kỹ thuật cũng
chưa kết thúc. Những bộ phận như thân tượng, tòa sen đều nặng tới hàng
tấn, lại cồng kềnh. Trong khi cầu thang chỉ rộng có 1,2 m, lại dích dắc.
Một kiến trúc sư đã phải tính toán sức chịu lực phòng trưng bày để
tượng có thể an tọa. Cũng theo ông Trần Thức, sau khi cắt băng khai mạc
năm 1966, tượng cũng đã vài lần phải đi sơ tán. Lần thứ nhất, tượng được
dời đến một đình làng ở Phúc Yên. Sau đó, trong chiến tranh, tượng lại
được mang về Sơn Tây. Lần đi xa nhất, năm 1979, tượng được chuyển lên
tận Đà Lạt. Sau đó, tượng quay về Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và ở đó cho
đến nay.
Niên đại thời Lê hay Mạc ?
Theo các nhà nghiên cứu, đây là một trong những pho tượng Quan âm lớn
nhất trong số các tượng Quan âm thế kỷ 16. Hiện tại, chùa Hội Hạ cũng
có một phiên bản tượng Quan âm khác. “Người dân cho biết phiên bản tượng
này đặt trước toàn bộ tam bảo, hai bên có tứ Bồ tát chắp tay hướng vào.
Vị thế này cho thấy rất có thể chùa Hội Hạ xưa là chùa thờ riêng Quan
âm. Pho tượng chiếm vị trí trung tâm nên được làm rất trau chuốt, quan
tâm đến cả 4 chiều không gian”, một nghiên cứu của Trang Thanh Hiền cho
biết.
Cũng theo nghiên cứu này, pho tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay cao
hơn 3 m cả bệ được tạc trong dáng vẻ một người phụ nữ nông thôn đôn hậu.
Khuôn mặt đầy đặn, mắt khép hờ, mũi nở, cằm thon. Cổ tượng không cao
lắm có ba ngấn. Mũ thiên quan được chia làm hai phần vành và đai mũ.
Vành mũ khắc chìm hình vân mây, vảy cá lớn, so le nhau từng lớp một,
biểu tượng cho nguồn năng lượng ánh sáng. Đai mũ ôm sát trán, trên gắn
nổi những bông hoa sen có dạng hình lá đề nhọn đầu, trong lòng chạm chìm
3 vòng tròn dựng lên dạng hình tháp.
Nghiên cứu còn cho biết tượng có những cánh tay lớn khá mập mạp nhưng
mềm mại, uyển chuyển và cân xứng với thân hình to bè của Quan âm. Hai
tay chắp trước ngực kết ấn liên hoa hợp chưởng. Hai ống tay áo của đôi
tay giữa được tạc rủ xuống hình cánh cung trước ngực. Đây cũng là chi
tiết đặc trưng cho phong cách tượng Quan âm thế kỷ 16, khiến khuôn bụng
của pho tượng có cảm giác thon nhỏ lại với một nút thắt áo tinh tế.
Nút thắt này cũng góp phần tạo nên dạng thức vai nở bụng thon cho các
tượng thế kỷ 16, mà sang thế kỷ 17 đã bị thay thế bằng kiểu thức bụng
nở. Một đặc trưng phong cách tượng Quan âm thế kỷ 16 khác là phần bệ
dưới cùng có dạng hình lục giác dẹt, với các cạnh không đều nhau.
“Đặc sắc nhất là 6 con Garuda đầu chim mình lực sĩ được chạm ở phần
thắt dang tay đỡ bệ. Đây là loại linh vật xuất hiện khá nhiều trong nghệ
thuật Champa. Trong mỹ thuật Đại Việt, hình tượng này thường chỉ tìm
thấy ở bệ đá hoa sen hình hộp thời Trần, mà các giai đoạn sau gần như
không có. Cũng do biểu tượng này, nhiều nhà nghiên cứu băn khoăn về niên
đại của tượng”, Trang Thanh Hiền viết. Trên thực tế, ông Nguyễn Đỗ Cung
đã cho rằng đây là một tác phẩm thời Mạc. Cùng quan điểm, TS Đoàn Thị
Mỹ Hương, Viện Văn hóa nghệ thuật, cũng xếp đây là tác phẩm thời Mạc.
Mặc dù vậy, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cho rằng tác phẩm này thời Lê
Trung hưng. Điều này thể hiện trên chú thích tác phẩm tại bảo tàng.
Về việc niên đại bức tượng, GS Trần Lâm Biền, ủy viên Hội đồng di sản
quốc gia nói: “Bức tượng có phong cách thời Mạc, nhưng niên đại là đầu
thế kỷ 17. Vì phong cách nằm giữa đấy. Thế kỷ 16 là thời Mạc, đầu thế kỷ
17 đã Lê Trung hưng rồi. So sánh về niên đại trên hoa văn thì thấy nó ở
thế kỷ 17 nhưng nhiều chi tiết vẫn mang phong cách thời Mạc. Nên đề chữ
phong cách thời Mạc đầu thế kỷ 17”.
Thế kỷ 16 được biết đến với sự phục hưng của Phật giáo
trên mọi phương diện, từ xây dựng đến trùng tu chùa chiền, đúc tạc tượng
Phật. Khi đó, tín ngưỡng thờ Quan âm phát triển mạnh mẽ, có nhiều ngôi
đền, chùa chỉ thờ riêng Quan âm dọc
|
Theo: thanhnienonline