Bị mù từ khi còn trai
trẻ, ông Gia kiếm sống bằng cách đi hát trên những chuyến tàu điện leng
keng khắp Hà thành. Cuộc đời nghệ sĩ của ông trải qua nhiều cay đắng,
tủi nhục, có những lúc bị coi thường như ăn xin.
Ở ẩn nhiều năm nay,
ông Nguyễn Lưu Gia, 67 tuổi, sống ở Từ Liêm, Hà Nội, vẫn có người tới
thăm. Họ đến vì muốn học những bài hát cổ, tìm về thời kỳ huy hoàng của
xẩm hay đơn giản chỉ muốn nghe lại những giai điệu buồn hiu hắt một
thời. Trong làn khói mù mịt của hơi thuốc lào, người nghệ nhân già thở
dài, cuộc đời hát xẩm cũng hẩm hiu như số phận của ông từ khi bị cướp đi
đôi mắt.
Ông Gia lớn lên trong một gia đình có bố làm thuốc đông y
ở làng Phú Đô (Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội). Từ nhỏ, ông là một đứa trẻ
khỏe mạnh, học giỏi, hết lớp 10/10 thì đột nhiên bị một cơn sốt. Sau
trận sốt đó, mắt ông mờ dần, dù có bố là thầy thuốc nhưng cũng không
giúp được gì. Vào bệnh viện, bác sĩ chẩn đoán ông bị viêm màng bồ đào -
một căn bệnh về mắt không thể nào chữa dược.
"Đang là một chàng
trai khỏe mạnh thì tự nhiên không nhìn được nữa, tôi mất phương hướng,
đi toàn đâm đầu vào tường, nhiều lúc chỉ muốn tìm cái chết. Nhưng rồi
tôi dặn lòng vươn lên, tìm đến học chữ nổi, sau đó thi vào khoa Cải
lương trường Sân khấu Nghệ thuật", ông cho biết.
Ra trường, người
khuyết tật như ông không được xét biên chế trong các cơ quan nhà nước.
Ông làm hợp đồng, lương không đủ sống. "Ngày đó, tôi được 45 đồng mỗi
tháng, đóng cơm tập thể mất 18 đồng. Sức tôi đang trai tráng phải ăn hai
suất mới đủ. Mỗi sáng, tôi phải mua thêm 2 bánh mì, để dành nửa cái cho
buổi trưa", giọng ông mơ màng hồi tưởng.
Một buổi tối, ông Gia đi
qua hồ Hoàn Kiếm thì "chết lặng" khi nghe thấy tiếng ca của cụ trùm
Nguyên - một người hát xẩm nổi tiếng thời bấy giờ. Hâm mộ cụ, chàng trai
thường qua đó nghe mỗi đêm, dần dần hát phụ cụ Nguyên vài điệu cải
lương. Khi hai bên đã thân thiết, ông trở thành học trò của cụ Nguyên.
"Lúc
đó tôi nghĩ mình đã phận mù rồi, có đi hát xẩm kiếm tiền thì cũng chẳng
sao. Ngày ngày, vợ cụ Nguyên dắt hai thầy trò tôi đi hát ở tàu điện,
tàu hỏa. Khoảng 3 năm thì tôi nắm được hết các điệu hát của cụ. Theo cụ
thêm một năm nữa thì thầy bảo tôi có thể đứng ra hát riêng được rồi",
người nghệ nhân cuối cùng ở Hà Nội hát xẩm đường tàu, nhớ lại.
Nghệ nhân Nguyễn Lưu Gia - người hát xẩm đường tàu cuối cùng ở Hà Nội. Ảnh: Phan Dương.
"Sáng
trăng sáng cả phương trời. Một gian nhà nhỏ đi về, về có nhau. Vì tằm
em phải chạy dâu. Vì chàng, em phải qua cầu đắng cay. Chồng em thi đỗ
khoa này, bỏ công kinh sử từ ngày lấy nhau...". Ca từ của điệu Xẩm tàu điện
kết hợp với tiếng nhị nỉ non, réo rắt, trong phút chốc khung cảnh của
cái thời Hà Nội xưa vọng lại - nơi có tiếng nỉ non của những người mù
hát xẩm bên tàu điện leng keng, tàu hỏa rầm rầm.
Ông Gia
bộc bạch, tiếng tàu điện, tàu hỏa giục giã ông ghê lắm. Dù đang ở đâu,
làm gì ông cũng hướng về phía đó và lại đi. Sau khi nắm hết các "bí kíp"
của thầy, chàng trai tuổi 30 cứ một mình một đàn, một gậy, một chiếc
túi nhỏ lò dò lên các toa tàu. Ông hát từ toa này sang toa khác, từ
chuyến tàu này sang chuyến tàu khác. Mỗi chuyến đi như vậy không biết
bao nhiêu ngày bởi qua những miền đất, gặp được những điều lưu luyến ông
ở lại nhiều hơn.
"Miền Bắc tôi đã đặt chân tới Lào Cai,
Tuyên Quang, Cao Bằng, miền Nam vào đến sông Tiền, sông Hậu, Hà Tiên. Ở
đâu có đường tàu, ở đó tôi có mặt", lão nghệ nhân nói. Có thời ông ở Huế
vài tháng. Cái mưa lâm râm tháng 7, tháng 8 đất cố đô nao lòng, buồn bã
làm ông thấy tiếng hát của mình cũng quyến luyến hơn. Có thời điểm ông
vào Nam, quen biết nhiều đồng môn hát xẩm, trao đổi với nhau những điệu
hát mới. Ông học thêm nhiều điệu cải lương, điệu hò, các bài hát tiền
chiến. Người hát biết được nhiều bài sẽ giữ được lòng người nghe hơn.
Phần
lớn thời gian còn lại, ông Gia gắn bó với những chuyến tàu điện ở Hà
Nội. Ngày đó, tàu điện là phương tiện đi lại gần gũi của người dân thị
thành bên cạnh xe tay kéo, xích lô, xe đạp. Ông Gia thường từ Bờ Hồ đi
ra cửa ô. Ông cũng có thêm những bạn xẩm khác quê Ninh Bình, Nam Đinh,
Hải Dương...
Lúc hành nghề, ông thuộc hơn 2/3 các điệu xẩm. Đến đâu ông thường hát những điệu phù hợp với khung cảnh đó như điệu Xẩm chợ, Huê Tình, Xẩm xoan, Ba bậc, Thập ân… Riêng ở tàu điện khu vực Đồng Xuân, phố cổ thì dù hát điệu gì ông cũng không thể thiếu bài mở màn Xẩm tàu điện. Bên cạnh đó, ông còn thuộc thêm mấy chục điệu vọng cổ, cải lương thỉnh thoảng góp vui cho thị hiếu từng người.
Trong ký ức của người nghệ nhân già, nghề hát xẩm tủi nhục chẳng khác gì ăn xin, mượn tiếng hát để xin tiền. "Tôi
đi đến đâu cũng bị xua đuổi. Vào quán cơm, người ta hỏi có tiền không
mới cho vào. Đến nhà trọ cũng vậy. Ngày đó, hát xẩm thịnh hành nhưng
chúng tôi thì bị khinh rẻ không khác người ăn xin", giọng ông chùng
xuống.
Đi hát quanh năm nhưng ông không đủ ăn, nhiều khi
hát cả ngày không đủ tiền mua bát phở phải nhịn đói. Lao lực thời trẻ
khiến nay ở 67 tuổi, sức khỏe ông đã giảm nhiều. Ông tâm sự, cuộc đời
mình chỉ có chút may mắn vì lấy được vợ trẻ. "Tôi đi hát ở chợ Ngọc Hà
rồi quen bà ấy. Ngày đó, bà ấy bán gà vịt, thường xuyên ra nghe tôi hát.
Hai bên hay trò chuyện, rồi nên duyên", ông nhớ lại.
Khi
hai người lấy nhau cũng là lúc ông từ giã thời hát ở tàu điện, mở một
gánh hát ở quê phục vụ những đám hiếu. Ông cũng tham gia hội người mù
của xã, huyện và thường xuyên biểu diễn phục vụ bà con thôn xóm. Đến
nay, vợ chồng ông có 5 người con, hầu hết đều thành đạt.
Gần
đây, Trung tâm Văn hóa âm nhạc nghệ thuật Việt Nam đã cất công đi tìm
những người từng hát xẩm trên tàu điện, khôi phục lại loại hình văn hóa
dân gian một thời. Ông Gia được phong nghệ nhân, xem như một "pho sử
sống về Xẩm tàu điện".
Theo: VnExpress