Dân là ai?
Trong khi bộ và nhiều sở VHTTDL vẫn loay hoay tìm mô hình quản lý cho
hơn 8.000 lễ hội ở ta thì TS Trần Hữu Sơn - GĐ Sở VHTTDL Lào Cai lại
cảnh tỉnh: Đã đến lúc chúng ta phải nghiên cứu sự biến đổi của lễ hội để
có cách ứng xử và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phù hợp, tránh áp
đặt. Lễ hội hiện nay không đơn thuần là đáp ứng nhu cầu tâm linh và vui
chơi nữa.
Muốn hay không muốn, nó cũng dần dần gần hơn ý nghĩa đóng góp vào sự
phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Do vậy, không thể nói “trả cho
dân” một cách khơi khơi thế được. Ông Sơn giải thích: “Vì nhu cầu quảng
bá, phát triển kinh tế địa phương thông qua lễ hội là có thật nên các
lễ hội dân gian ngày càng lớn, người dự lễ hội ngày càng đông, nếu không
có sự ra tay của chính quyền địa phương thì các vấn đề như trật tự an
ninh, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường... giải quyết ra
sao?”.
Đồng tình với quan điểm này ông Mai Tư - GĐ Sở VHTTDL Thanh Hóa -
cũng cho rằng bất kỳ lễ hội nào cũng phải có tổ chức, có nguời đứng đầu
và phải có người nhà nước tham gia tổ chức, chỉ đạo, dù cho đó là cấp
nhỏ nhất, từ cấp thôn cho đến cấp tỉnh. Ông Mai Tư dẫn chứng: “Lễ hội
Lam Kinh - Thanh Hoá năm 2007, Bộ đưa vào dự án “Lễ hội, trả lại cho
dân”, với kinh phí khoảng 600 triệu đồng.
Đưa cho dân làm năm đó xong thì sang năm sau mất hết (trang thiết
bị). Bởi vì “anh” bảo giao cho dân mà! Đạo cụ, phục trang, trống chiêng
họ đem về vứt lay lắt. Đến mùa lễ hội năm sau, nguời ở nam, nguời ở
bắc, nguời đi làm ăn xa, không triệu tập được về để tổ chức... Thế là,
sau một năm tiêu phí đi 600 - 700 triệu chả để làm gì... Mà kể cả nhà
nuớc có làm chăng nữa thì cũng là dân chứ là ai?”.
Mô hình nào?
Trên 90% lễ hội ở ta gắn liền với di tích, mà di tích lại thuộc rất
nhiều cấp quản lý - từ tỉnh, huyện, thị xã đến tự quản. Vì thế, tình
trạng quản lý chồng chéo hoặc “cha chung không ai khóc” diễn ra ở nhiều
nơi. Hiện tượng thay tượng mới vào chỗ tượng cổ, đưa “vật thể lạ” vào
các nơi thờ tự; trục lợi cá nhân trong lễ hội... diễn ra thường xuyên,
kể cả ở những di tích cấp quốc gia. Một mô hình quản lý cho từng cấp đơn
vị vẫn là bài toán chưa có đáp số của ngành văn hoá trong nhiều năm
qua.
Thế nhưng, theo ông Mai Tư, Bộ VHTTDL chỉ nên chú trọng nghiên cứu,
ban hành những chỉ thị, hướng dẫn những việc lớn như: Đề phòng cháy, nổ;
tổ chức lễ hội, sự kiện phải đúng với yêu cầu, mục đích, tầm cỡ và lĩnh
vực, tránh lãng phí...Còn những chuyện khác thì để cho địa phương và
nhân dân, tùy từng tình hình cụ thể, cùng làm thì tốt hơn. Những nơi nào
chưa có hiểu biết đầy đủ về văn hóa thì tập huấn để làm cho đúng.
Còn vấn đề quản lý tiền “dầu, đèn”, công đức, theo tôi, dù cho là tổ
chức nào, đoàn thể nào, bộ phận nào... đụng đến đồng tiền thu chi là
phải theo nguyên tắc tài chính nhà nước, cứ thế mà làm. Còn với từng di
tích, trong lúc chưa có bộ phận phụ trách về tài chính thì có thể phải
giao cho chính quyền địa phương - họ có đủ điều kiện để chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
Bây giờ, cán bộ cấp xã cũng toàn là ngưòi đã học đại học rồi chứ có
phải như ngày xưa đâu. Còn ông Trần Hữu Sơn thì khẳng định: “Muốn mô
hình (quản lý) nào thì nó vẫn phải thuộc quản lý của Sở VHTTDL. Nói cách
khác, phải tăng cường công tác kiểm tra của các cơ quan văn hóa”.
Và cuối cùng, mấu chốt vấn đề có lẽ ở chỗ cần nâng cao sự hiểu biết
đầy đủ không những của người dân mà còn cả chính những người làm quản lý
nữa, về lễ hội, về di sản. Chỉ có như vậy thì mới chấm dứt được nạn
mất tượng cổ, đưa những tượng thờ lòe loẹt, sư tử đá vào những nơi thờ
tự; nạn đốt đồ mã “khủng” cùng tình trạng chen lấn, xô đẩy “cướp ấn”
hoặc đặt lễ mà chả biết lễ ai.. - như giáo sư Trần Lâm Biền đã từng nói.
Theo: laodong