Nhu cầu thực tế
Ngoài việc tìm hiểu thông tin về
lịch sử, văn hóa xã hội, du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan
bảo tàng còn có nhu cầu khác như ăn uống, vui chơi giải trí và mua sắm.
Ngoài các hoạt động chuyên môn đơn thuần, người ta có thể tổ chức các
hoạt động như: lễ trao thưởng, hội thảo, diễn thuyết, giao lưu tọa đàm,
họp mặt truyền thống hay khiêu vũ, lễ cưới văn hóa… thông qua cơ sở sẵn
có như phòng họp, hội trường, khuôn viên sân vườn của bảo tàng. Tất
nhiên, những hoạt động này phải phù hợp với nhiệm vụ và mục tiêu giáo
dục của bảo tàng.
Ở Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Pháp,
Áo… hầu như không nơi nào không có “Cửa hàng bảo tàng”, những nơi này
thường được đầu tư rất kỹ, chăm chút; nhiều mặt hàng đặc trưng chỉ có ở
bảo tàng. Họ quan niệm các cửa hàng này không đơn thuần cho tổ chức, cá
nhân thuê mặt bằng để kinh doanh, mà còn là nơi để bảo tàng giới thiệu
các mặt hàng có liên quan đến hiện vật hoặc chuỗi đề tài trong chuyên đề
của bảo tàng. Việc bán hàng vì thế sẽ góp phần vào nguồn tài chính quan
trọng cho bảo tàng, vì lợi nhuận thu được sẽ quay trở lại phục vụ cho
nhiệm vụ chung của bảo tàng, không phải vì một tổ chức cá nhân nào…
Trong khi đó ở Việt Nam những cửa hàng dạng này tuy khá phổ biến nhưng
điểm chung là sản phẩm lưu niệm chưa phong phú, thiếu đặc sắc, chưa tạo
được dấu ấn riêng của bảo tàng.
Bảo tàng là nơi lưu giữ những giá
trị văn hóa, những giá trị lịch sử của dân tộc, của cộng đồng. Để những
giá trị này thấm sâu, lan tỏa rất cần sự kết nối với cộng đồng thông qua
việc tổ chức hoạt động dịch vụ bổ trợ, điều này vừa phục vụ cho mục
tiêu phát triển của bảo tàng, vừa thỏa mãn nhu cầu của khách tham quan.
Lãng phí đáng tiếc
Ở một số bảo tàng nước ngoài, đặc
biệt ở Mỹ từ lâu đã thực hiện dịch vụ thiết kế “Hộp tư liệu giáo dục của
bảo tàng”. Trong các hộp này có những tư liệu, hiện vật nguyên bản hay
bản sao, các cuốn phim đèn chiếu (slide) ấn phẩm liên quan đến một đề
tài cụ thể nào đó để cho thuê hoặc bán. Bảo tàng nghệ thuật ở New York
thiết kế hệ thống gồm 8 chương trình dành cho học sinh trung học với chủ
đề “Khám phá lịch sử châu Mỹ bằng nghệ thuật”. Mỗi chương trình gồm đĩa
phim, nhiều bản sao hiện vật gốc, sách giáo khoa, đĩa hát… nhằm cung
cấp cho học sinh những thông tin khái quát về nghệ thuật, âm nhạc, những
nghệ sĩ tên tuổi. Những chương trình trên sau đó đã được một công ty ở
Chicago hợp đồng sản xuất và phân phối trong phạm vi quốc gia, sau khi
đã trả tiền bản quyền cho bản tàng. Hay Bảo tàng thiếu nhi ở Boston đã
ký hợp đồng với các cơ quan giáo dục của Mỹ làm ra các “Hộp tư liệu giáo
dục của bảo tàng” theo các chủ đề nhỏ như “Một ngôi nhà ở Hy Lạp cổ
đại” hay “Một gia đình ở Nhật Bản năm 1966”.. Các chương trình này đều
được sản xuất và phân phối theo kiểu thương mại và dĩ nhiên ngoài mục
đích hàng đầu là giáo dục, cung cấp tư liệu học tập, còn đem lại nguồn
thu chính đáng cho bảo tàng hoạt động.
Thật ra ở Việt Nam, Luật Di sản
văn hóa năm 2009 đã chính thức đưa ra chủ trương tổ chức các hoạt động
dịch vụ cho bảo tàng. Tiếp đó, tại Thông tư 18-2010 Bộ VH-TT-DL cũng đã
có những hướng dẫn cụ thể về việc tổ chức hoạt động dịch vụ cho bảo
tàng. Thế nhưng, do một số địa phương, một số người vẫn có cái nhìn tiêu
cực khi cho rằng bảo tàng phải là nơi trang nghiêm, tĩnh mịch nên đến
nay hoạt động này hầu như không mấy khởi sắc, các đơn vị vì nhiều lý do
cũng không mặn mà. Đây rõ ràng là một sự lãng phí đáng tiếc. Để các bảo
tàng có thể phát triển bền vững, hiện đại rất cần một định hướng quy
hoạch căn cơ, quản lý linh hoạt của các ngành chức năng.
Theo: saigongiaiphong