Hiện nay, nhiều làng nghề, nhiều doanh nghiệp vẫn tự hào về truyền
thống lâu đời, về tay nghề, tính nghệ thuật, sự độc đáo, ý nghĩa văn hoá
của sản phẩm, các thiết kế sản phẩm mang tính độc nhất và của riêng
làng nghề mình, doanh nghiệp mình. Trong khi đó, khả năng ứng dụng và
tính thương mại của sản phẩm chưa được chú ý nhiều. Nếu chỉ đề cao tính
nghệ thuật, sự đơn chiếc của sản phẩm thì đó chỉ là những mặt hàng lưu
niệm đơn thuần, đối tượng mua hàng đa phần chỉ là những người khách du
lịch. Loại hàng này hầu như không có cơ hội nhận được những đơn hàng
lớn.
Một ví dụ cụ thể, đó là trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam rất được ưa chuộng ở thị trường Nhật Bản do sự mới lạ và giá rẻ
nhưng gần đây, sức hấp dẫn đó đã bị giảm nhiều mà nguyên nhân chính là
nhiều mẫu mã đã không có sự thay đổi trong suốt thời gian dài.
Một chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế hàng hóa của Nhật Bản cho rằng,
chất lượng sản phẩm của Việt Nam ngày càng tốt hơn nhưng mẫu mã các sản
phẩm xuất đi Nhật Bản thì hầu như chưa có tiến bộ. Theo ông, để khắc
phục tình trạng này cần phải ngay lập tức cải tiến mẫu mã sản phẩm.
Một khảo sát của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam cũng cho
thấy, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam yếu nhất ở hai khâu thông tin thị
trường và kiểu dáng mẫu mã.
Việc sản xuất theo đơn đặt hàng của
nhà nhập khẩu nước ngoài thường đem lại giá trị rất thấp. Anh Nguyễn Văn
Bền, chủ một doanh nghiệp mây tre đan ở xã Phú Nghĩa cho một ví dụ: Đối
với sản phẩm làn đựng quần áo loại lớn, khi hoàn thiện đến công đoạn
đóng vào container, công ty anh được trả gần 300 nghìn đồng cho mỗi sản
phẩm, tính ra xấp xỉ 15 USD. Trong khi đó, giá bán ở nước ngoài trung
bình là 120- 150 USD. Hay mặt hàng khay đựng bằng mây tre đan, doanh
nghiệp Việt Nam chỉ bán được 24 nghìn đồng, trong khi giá bán đến tay
người tiêu dùng là 10 bảng Anh. Doanh nghiệp nước ngoài chỉ việc nhập
hàng về phân phối, còn doanh nghiệp Việt Nam phải lo hoàn thiện tất cả
các khâu, thậm chí phải dán sẵn đến cả chiếc tem ghi giá bán…
Hàng thủ công mỹ nghệ là một thế mạnh của Việt Nam, đem lại giá trị xuất
khẩu cao. Hầu hết những mặt hàng này được sản xuất tại các hộ, các làng
nghề nên giá thành tương đối thấp. Tuy nhiên, giá cả thấp không phải là
tất cả, bởi khi mà thị trường ngày càng bão hoà với các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ thì sản phẩm có giá rẻ là chưa đủ để thoả mãn nhu cầu khách
hàng. Những khách hàng thuộc tầng lớp trung lưu sẵn sàng trả giá cao
cho những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của họ.
Ông Vũ Quốc
Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, gốm sứ nói riêng và
hàng thủ công của nước ta nói chung đang có những hạn chế đó là quy mô
nhỏ lẻ, phân tán; mẫu mã đơn điệu, chậm được cải tiến; công nghệ chậm
đổi mới… sức cạnh tranh của sản phẩm còn quá yếu, kể cả mẫu mã, giá cả,
thương hiệu, đến sản xuất, tiêu thụ, tìm kiếm thị trường. Theo ông Tuấn,
khâu cải tiến mẫu mã chính là một khâu tạo ra nhiều giá trị gia tăng
nhất nhưng đáng tiếc, đây lại là khâu chậm đổi mới của nhiều làng nghề
hiện nay.
(congluan)