Ở trung tâm của Thủ đô Hà
Nội 36 phố phường, nếu không căn cứ vào tấm biển, thì không dễ dàng nhận ra phố
Lò Rèn. Cả con phố toàn những cửa hàng thời trang, mỹ phẩm, cửa hoa, cửa sắt...
Chỉ còn duy nhất một lò rèn đỏ lửa của gia đình ông Nguyễn Phương Hùng, nhà số
26. Ngôi nhà có vị trí khá đẹp. Nếu cho thuê hoặc chuyển nghề kinh doanh mặt
hàng khác, ông Hùng có thể kiếm được một khoản kha khá. Song ông Hùng vẫn trung
thành với nghề cũ. Hằng ngày, ông xoay trần với đe, búa và chiếc lò than hồng
rực.
So với các con phố khác,
phố Lò Rèn hình thành khá muộn. Xưa, thợ rèn người làng Hòe Thị, huyện Từ Liêm
đem nghề cổ truyền lên đây lập nghiệp. Họ rèn nông cụ, những đồ dùng gia đình,
đồ dùng của thợ cạo, thợ mộc, thợ may... rất uy tín. Đầu thế kỷ 20, người Pháp
xây dựng nhiều nhà cửa, làm cầu đường..., một số vật liệu phải đặt làm tại chỗ
như bu-lông, bản lề, cửa sắt... Phố Lò Rèn được coi là thịnh đạt nhất trong
thời kỳ này, với khoảng hơn trăm bễ lò rèn. Nghề rèn tiếp tục phát triển trong
những năm sau đó. Đến thời kỳ mở cửa, lửa các lò rèn tắt dần, thay vào đó là
những cửa hàng kinh doanh, buôn bán. Dấu xưa của một nghề truyền thống cũng
không còn nhiều. Ngôi nhà số 1 ở phố Lò Rèn là đình thờ tổ nghề. Xưa kia, đây
từng là ngôi đình rộng trên dưới 400 m2 được xây bằng gỗ, mái đình cong vút
giữa trời mây. Nay thì ở ngôi nhà hai tầng đó, tầng một là nơi ở của một gia
đình, tầng hai có diện tích khoảng 20 m2 là nơi thờ ông tổ nghề. Có lẽ, tương
lai của nghề rèn trên con phố này khó mà tồn tại lâu thêm nữa...
Ông Hùng là thế hệ thứ ba
trong gia đình làm nghề rèn. Dưới sự chỉ bảo của ông nội và bố, ông Hùng bắt
đầu phụ việc rèn cho gia đình từ khi còn là một cậu bé sáu, bảy tuổi. Nhưng một
thời gian sau, ông Hùng đã bỏ nghề của gia đình để làm các công việc khác như lái
xe, công nhân nhà máy... Ông chỉ trở về với nghề truyền thống khi ở tuổi 35.
Biết là cái nghề không lấy gì làm cao quý lắm theo quan niệm xã hội, nhưng làm
một thời gian, ông Hùng gắn bó đến nỗi không cầm búa là nhớ không chịu được.
Cách đây vài năm, khu phố này có hai bễ lò rèn, nhưng gia đình kia cũng dần
chuyển sang bán bún ốc. Nghề rèn vừa nóng nực vừa nặng nhọc, vất vả cho nên
chẳng ai muốn làm. Ông Hùng không truyền lại nghề cho con trai, bởi các con ông
đều đang học đại học. Các anh chỉ phụ giúp ông dọn đồ hằng ngày. Con gái ông
thậm chí còn không thể phân biệt được giữa lò rèn và ống bễ. Điều ấy có nghĩa
là ít năm nữa, khi nào ông Hùng ngừng quai búa, phố Lò Rèn chỉ còn lại cái tên.
36 phố phường là cách gọi
ước lệ, chỉ số nhiều. Hà Nội có nhiều phố nghề hơn thế. Nhưng những nghề truyền
thống giờ còn lại không nhiều, chỉ đếm trên đầu ngón tay như phố Lãn Ông có
nghề thuốc bắc, phố Hàng Bạc giữ nghề kim hoàn, phố Tô Tịch có nghề tiện, khắc
dấu, v.v. Một trong những con phố có tiếng là phố Hàng Trống, với nghề làm
tranh. Thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, dòng tranh này gắn liền với tên
tuổi nghệ nhân Lê Đình Nghiên. Ông Nghiên nổi tiếng không chỉ bởi nắm vững kỹ
thuật làm tranh, mà bởi một lý do nữa, hẳn ông không thích lắm: Ông là người
thợ cuối cùng của dòng tranh Hàng Trống. Từ nhỏ, ông Nghiên đã học nghề tranh
theo cách bao đời nay nó tồn tại - cha truyền con nối. Xưa, tranh Hàng Trống,
ngoài dùng để làm tranh thờ, giống như tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống còn được
người ta mua về chơi hoặc treo Tết. Nhu cầu này đã góp phần làm cho nghề làm
tranh Hàng Trống phát đạt. Thời kỳ phát triển mạnh nhất, phố Hàng Trống và một
phần phố Hàng Nón đều làm và bán tranh. Nay thì người chơi tranh không còn, Tết
đến xuân về, người ta cũng không treo tranh Hàng Trống nữa. Nghệ nhân Lê Đình
Nghiên gần như chỉ làm tranh khi có bảo tàng đặt. Chuyên môn của ông cũng phục
vụ cho công tác phục chế là chính. Hiện, ông bắt đầu truyền nghề cho cậu con
trai là Lê Hoàn. Nhưng khi xã hội không có nhu cầu, khó có thể hy vọng tranh
Hàng Trống còn tồn tại. Có chăng, chỉ tồn tại lay lắt bởi trách nhiệm với họ
tộc của người nghệ nhân và tình yêu nghề của họ.
Khi trò chuyện với những
người thợ trên đất Thăng Long - Kẻ Chợ, tôi cứ nghĩ, nếu ông Nguyễn Phương Hùng
và ông Lê Đình Nghiên gặp nhau, họ sẽ có nhiều chuyện để nói lắm. Hai nghề khác
xa nhau, một nghề cần sức vóc và kỹ thuật, một nghề cần sự tỉ mỉ, tâm hồn và
tài năng nghệ thuật. Nhưng họ có điểm chung, đều là người duy nhất còn làm nghề
truyền thống trên những con phố nghề truyền thống.
Cuộc sống là dòng chảy
không ngừng, cùng với dòng chảy ấy là sự vận động, biến đổi và những gì thích
nghi sẽ tồn tại. Có những nghề tưởng như cầm chắc việc thất truyền, thì lại
đang khá phát đạt, điển hình là nghề khắc dấu. Nghề khắc dấu xưa chủ yếu có ở
phố Tô Tịch. Trước thế kỷ 20, văn thơ là thú chơi phổ biến hơn cả của trí thức
cũng như các bậc tao nhân, mặc khách. Mỗi người thường có vài con dấu để ghi
danh mình trên những sáng tác. Khi xã hội biến đổi, các con dấu chỉ còn tồn tại
trong các cơ quan nhà nước, những người thợ khắc dấu từng suýt mất nghề. Nhưng
khi xã hội phát triển, con dấu trở thành một thú chơi phổ biến trong cả người
trẻ lẫn người già. Người ta có thể khắc tên, hiệu để lưu danh trên những bức
thư pháp. Có người khắc dấu riêng dành cho tủ sách gia đình, lại có người khắc
dấu mang hình con giáp... Một thú chơi vừa thể hiện cá tính và mang tính mỹ
thuật cao. Một cách tự nhiên như thế, nghề khắc dấu giờ trở nên phổ biến nhất ở
phố Hàng Quạt, với sáu, bảy hiệu nghề. Nếu đặt lại tên, có lẽ cái tên phố Hàng
Dấu sẽ thích hợp hơn với con phố này. Lác đác còn có ở các phố cổ như Tô Tịch,
Tạ Hiện. Đặc biệt, thời gian để khắc một con dấu không nhiều, chừng 20 đến
30 phút cho nên nó nhanh
chóng trở thành một món đồ lưu niệm thú vị đối với du khách, nhất là du khách
phương Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc. Cửa hiệu khắc dấu được nhiều người biết đến
hơn cả là của nghệ nhân Phạm Toàn ở số 6 Hàng Quạt. Gia đình nghệ nhân có năm
đời gắn bó với nghề chạm khắc gỗ, nay truyền thống được tiếp nối. Phần lớn các
cửa hàng khắc dấu tiếp tục có những thợ trẻ học và làm nghề. Nhiều du khách rất
thích thú sáng tác ảnh tại những cửa hàng này. Những dụng cụ, cách làm cho đến
sản phẩm của nghề khắc dấu chẳng khác gì so với hàng trăm năm về trước, như là
một Hà Nội cổ xưa thu nhỏ giữa phố phường hiện đại.
Một trong những điều tạo
nên nét hấp dẫn của Hà Nội 36 phố phường chính là những nghề cổ truyền. So với
cách đây khoảng một trăm năm, đã có bao chuyện mất - còn. Hà Nội sẽ ra sao nếu
phố nghề cứ mai một theo thời gian? Du khách trong và ngoài nước sẽ ngắm gì khi
phố cổ toàn những cửa hàng hiện đại, xe cộ đông đúc? Chẳng thể không nao lòng
trước những biến động của lịch sử, khi cái hiện đại làm nhạt phai truyền thống,
trong đó có nghề cổ. Nhưng khi nghĩ về nghề cổ - phố nghề, ta phải dựa trên
dòng chảy của lịch sử. Xã hội có nhu cầu - nghề ra đời và phát triển. Khi xã
hội không còn nhu cầu về các sản phẩm truyền thống nào đó, nghề truyền thống
cũng tự nhiên mai một theo. Thật khó hình dung, giữa Thủ đô hôm nay vẫn tồn tại
những tuyến phố chuyên bán bồ, bán cót ép, bán chĩnh hay mắm muối... Có thể kể
ra hàng loạt cái tên trên đất Thăng Long - Kẻ Chợ mà nghề xưa không còn đi cùng
tên phố. Trong số này, cùng với sự vận động của xã hội, nhiều con phố đã định
hình được những đặc trưng mới, rồi trở nên thân quen. Phố Hàng Gai từ lâu đã
được biết đến là nơi buôn bán sản phẩm tơ lụa. Phố Hàng Bồ là nơi bán phụ liệu
may mặc. Các phố Hàng Dầu, Hàng Thùng là nơi kinh doanh giày dép. Phố Hàng
Đường bán ô mai, bánh kẹo, v.v.
Nghĩ về sự mất - còn của
những phố nghề, ta chia sẻ nỗi trăn trở của người thợ rèn Nguyễn Phương Hùng
khi cái bễ rèn trên phố cùng tên chỉ còn là chuyện của ngày một ngày hai. Song,
dẫu có nuối tiếc một nghề rèn trên phố cổ, ít nhiều nó phản ánh một giai đoạn
lịch sử của Thủ đô, ta vẫn khó tìm ra câu trả lời nếu tưởng tượng, giữa khu phố
cổ chật hẹp, có trăm bễ lò rèn đỏ lửa, chan chát suốt ngày bởi tiếng quai,
tiếng búa... Hẳn là phố Lò Rèn sẽ bị phàn nàn bởi ô nhiễm không khí và tiếng
ồn. Bảo tồn nghề phố cổ cần nhìn trong dòng chảy lịch sử, căn cứ vào những quy
luật xã hội, khi trong xã hội ngày nay, có những nghề không phù hợp hoặc xã hội
không có nhu cầu, thậm chí khó chấp nhận. Nhưng ta không thể khoanh tay đứng
nhìn cái quy luật ấy chi phối mọi nghề ở đất Thăng Long vốn trứ danh 'khéo tay
nghề, đất lề Kẻ Chợ'. Ví như để mất tranh Hàng Trống, Hà Nội nói riêng và Việt
Nam nói chung mất nhiều hơn cái gọi là một nghề. Kỹ thuật làm tranh Hàng Trống
hội tụ tinh hoa và sự tài khéo của những con người đất kinh kỳ; đồng thời, mỗi
bức tranh còn phản ánh tư tưởng, phản ánh quan niệm thẩm mỹ của một thời quá
khứ. Nếu mất tranh Hàng Trống, ta sẽ mất đi một mảng lớn trong nghệ thuật cổ
truyền.
Phố cổ Hà Nội xưa
Bài toán bảo tồn từng
được 'nâng lên, đặt xuống' ở nhiều hội thảo và tốn kém không ít giấy mực, tiền
của. Nhưng chưa có dự án nào triển khai trên thực tế. Hơn bao giờ hết, cần định
vị và phân loại các nghề có nguy cơ thất truyền, cái gì nên can thiệp, cái gì
để nó tự nhiên theo quy luật lịch sử. Mọi so sánh có thể là khập khiễng, nhưng
có nhiều cách bảo tồn đã từng được áp dụng, có thể sẽ phát huy trong diện rộng
hơn. Bảo tồn nhà cổ ở làng Đường Lâm, thị xã Sơn Tây bước đầu có lời giải. Chủ
những ngôi nhà cổ hằng tháng nhận được một khoản tiền nhất định để phối hợp với
các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ bảo tồn nhà cổ. Khi nhà cửa xuống cấp,
hỏng hóc, chủ nhà có trách nhiệm báo cáo nhà quản lý, đồng thời, chủ nhà hợp
tác khi có khách tham quan. Chúng tôi từng đến làng cổ này và thăm nhà cổ của
ông Nguyễn Văn Hùng ở thôn Mông Phụ. Ông Hùng cho biết: Số tiền gia đình được
nhận chỉ là 400 nghìn đồng/tháng khiến gia đình cảm thấy có trách nhiệm trong
việc gìn giữ nhà cổ hơn rất nhiều. Trên thế giới, không hiếm nghề không thể tồn
tại, nhưng do ảnh hưởng quan trọng của nó, chính quyền cấp tiền cho những nghệ
nhân, để họ duy trì nghề cổ. Vì họ, chính là những người lưu giữ một góc ký ức
của đất nước, rộng hơn là của nhân loại. Nên chăng, với những nghề cổ truyền có
vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mà không
còn cơ sở xã hội để tồn tại, chúng ta có thể áp dụng hình thức tương tự, ít
nhất để những người làm nghề cảm thấy có sự quan tâm từ phía nhà quản lý thay
vì họ phải 'đơn thương độc mã'.
Theo Báo Nhân Dân