Người dân không lấy sợi từ cây gai rừng nữa mà mua chỉ công nghiệp về
dệt vải để may váy, áo, dồ, khố... Trong khi đó, chính đồng bào Tây
Nguyên giờ đây cũng không còn mấy ai mặc trang phục truyền thống
Như mọi dân tộc trên trái đất này, sau thời ăn lông ở lỗ, người Tây
Nguyên lấy lá cây che thân. Sau thời lá cây là vỏ cây. Thời vỏ cây kéo
dài cho đến sát thế kỷ XX.
“Cải tiến” theo thị trường
Nếu ai đã đọc tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc
thì đều biết dân làng Kông Hoa của Anh hùng Núp cũng từng mặc áo, khố vỏ
cây. Nói vỏ cây nhưng thực ra nó là lớp lụa của một loại cây, khá bền
và mỏng. Vỏ cây đập dập ra thì tước được một lớp lụa. Qua bàn tay khéo
léo của các cô gái, nó thành một thứ có thể quấn quanh người để che
những chỗ cần che và để ấm nữa.
Cho đến gần đây, đàn ông Tây Nguyên vẫn đóng khố cởi trần, đàn bà vẫn
mặc váy và mặc kệ cho ngực... tung tăng đi chơi. Chỉ đến khi trở thành
vợ, thành mẹ, phụ nữ Tây Nguyên mới mặc áo che ngực. Rồi cũng như mọi
dân tộc trên trái đất này, người Tây Nguyên dệt vải và may quần áo từ
những sợi chỉ lấy từ cây gai rừng.
Mới đây, khi đến làng Dor 2, xã Glar, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai,
tôi mới biết một việc diễn ra đã khá lâu rồi mà mình không hay. Ấy là,
giờ bà con không lấy sợi từ cây gai rừng để dệt nữa mà mua chỉ công
nghiệp về dệt vải để may váy, áo các loại.
Ngày xưa, bà con vào rừng tìm cây gai lấy vỏ, tước thành sợi rồi
nhuộm. Người Tây Nguyên chuộng mấy màu cơ bản như đỏ, đen, chàm, xanh -
cũng có thể là do nó dễ làm. Sợi ấy dệt thành vải, dùng may thành các
loại trang phục như váy, áo, khố, dồ (tấm đắp và dùng để địu con)...
Xưởng dệt của chị Mlop ở huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai
Thoạt nhìn, có cảm giác màu sắc, hoa văn trên trang phục truyền thống
của tất cả cư dân cùng sống ở dải đất Tây Nguyên đều giống nhau song
không phải thế. Mỗi dân tộc có họa tiết, hoa văn khác nhau; cách phối
màu, vị trí cũng khác nhau... Sở dĩ mới nhìn, ta có cảm giác giống nhau
là bởi chúng có sự tương đồng lớn. Ở Gia Lai có 2 dân tộc bản địa chính
là Jrai và Bahnar. Họa tiết, hoa văn trên váy hoặc tua khố của 2 dân tộc
này rất khác, dù mới nhìn thì thấy chúng na ná nhau.
Mlonh bên những sản phẩm do mẹ con cô làm ra
Đồng bào Tây Nguyên thường trong đời chỉ có vài bộ váy, áo do họ tự
dệt. Dệt được một tấm vải để làm dồ, váy, áo hoặc khố rất công phu và
tốn thời gian, có khi đến mấy tháng trời. Vậy nên, giờ bà con “cải
tiến”, mua chỉ màu về dệt, vừa nhanh mà lại vừa đẹp, nhiều màu sắc.
Tôi hỏi đi hỏi lại Mlop, người có một xưởng dệt ở làng Dor 2, chị cho
biết may váy, áo vẫn dùng màu sắc cũ; còn làm các loại túi xách, mũ,
áo... du lịch thì mới phối màu theo thị trường. Cả huyện Đăk Đoa giờ chỉ
còn làng Dor 2 và cả làng này chỉ có mẹ con chị Mlop duy trì nghề dệt.
Trung tâm Khuyến công tỉnh Gia Lai có về xã Glar đầu tư mở một lớp
khá hiện đại, mỗi học viên đi học dệt vải được nhà nước chi 15.000
đồng/ngày. Chị Mlop là giáo viên, được khoán trọn gói một khóa 3 tháng
là 5 triệu đồng. Không chỉ dạy ở lớp, chị còn về nhà mở xưởng, vừa dạy
vừa giúp chị em trong làng có thu nhập thêm.
Bất cứ ai nhàn rỗi đến nhà Mlop đều có việc cho làm. Đơn giản nhất là
gỡ chỉ trong cuộn thành từng “sợi”. Mỗi “sợi” như thế là mấy cuộn chỉ
với nhiều màu theo thứ tự để may từng thứ khác nhau qua hướng dẫn của
chị. May túi thì khác, áo hay bóp, mũ... cũng khác, do ý đồ phối màu,
xong rồi đến dệt. Từng “sợi” chỉ sau khi dệt thủ công sẽ cho ra những
miếng vải đủ loại để may từng thứ theo yêu cầu.
Mỗi người đến làm ở nhà chị Mlop đều được trả khoán theo công việc.
Thu nhập tùy việc họ đến sớm hay muộn, có người 30.000 đồng, cũng có
người được 100.000 đồng/ngày. Mùa khô ít người đến nhất bởi bà con đi
làm rẫy nhưng mùa mưa thì phụ nữ trong làng rảnh rỗi nhiều. Mùa hè còn
có học sinh tham gia. Chịu khó kiếm thêm như thế cũng có đồng ra đồng
vào để chi tiêu, bớt đi việc ngồi lê rồi sinh ra đủ chuyện không hay.
Chủ yếu cầm cự
Cái khó nhất của chị Mlop là thiếu vốn. Từ “vốn” thì đến bất cứ cơ sở
kinh doanh nào cũng thấy nó vang lên đầy thiểu não. Nhưng ở cái xưởng
bé bé của Mlop thì khác, bởi đồng bào Tây Nguyên rất thật thà, họ làm
xong và lấy tiền ngay trong ngày, không trả tiền là... không về, trong
khi hàng của chị bán rất chậm.
Chị Mlop có cô con gái là Mlonh ở cách nhà mẹ chừng 200 m. Cô đảm
nhận việc may. Cứ có vải bên mẹ chuyển sang là Mlonh may. Tất nhiên, giờ
đầu ra rất khó nên cô chỉ may khi có người đặt. Tôi đặt giúp bảo tàng
văn học của Hội Nhà văn 2 bộ váy áo truyền thống của phụ nữ Jrai và
Bahnar. Té ra giá rất rẻ, chỉ chưa đầy triệu đồng một bộ nhưng nếu tính
công ra thì nhiều kinh khủng. Ví dụ, để có một tấm vải may váy, nếu dệt
nhanh, liên tục thì vài tuần; còn cà kê vừa làm vừa... lên “phây” có khi
phải mất mấy tháng. Mà như đã nói, để ra một sản phẩm cuối cùng như
váy, áo, khố... cần rất nhiều công đoạn.
Tôi hỏi Mlop về tương lai của nghề này, chị bảo: “Khó lắm, chủ yếu
cầm cự cho các cháu trong vùng biết nghề, chứ có bán được đâu, dù rất
rẻ”. Thường thì các sơ ở nhà thờ gỗ Kon Tum điện đến đặt. Cùng con gái
làm xong, Mlop trực tiếp chạy xe máy từ làng ra TP Pleiku, rồi đi xe đò
lên Kon Tum giao cho các sơ. Nhà thờ gỗ Kon Tum là điểm có đông khách
tham quan nên họ hay mua những sản phẩm này về làm kỷ niệm. Ngoài ra,
chị còn mang đến Pleiku ký gửi. Rồi một vài tỉnh phía Nam cũng đặt, chị
lại đóng thùng chở ra bến gửi xe đò...
Trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào Tây Nguyên, giờ đây, trang
phục truyền thống hầu như không ai mặc. Khi vào thăm 2 xưởng của Mlop và
Mlonh, tôi thấy cả mẹ con chị và một số thợ đều mặc áo thun quần tây.
Có lần tôi dẫn mấy ông bạn nhiếp ảnh về làng, nhờ đồng bào mặc đồ truyền
thống để chụp hình. Thế là bà con nháo nhào chạy khắp nơi... mượn!
Vậy nên, thi thoảng ta vẫn bắt gặp vài cảnh buồn cười trên truyền
hình là bà con Tây Nguyên đi làm rẫy mà mặc đồ truyền thống mới tinh. Ôi
giời, các phóng viên của chúng ta nài nỉ đồng bào đấy, chứ bình thường
họ chả mặc! Đơn giản, vì để có được một bộ đồ truyền thống thì rất kỳ
công, trong khi hàng chợ rẻ rề lại sặc sỡ, thời trang, tội gì không mua
về mặc? Nói thổ cẩm thoi thóp là vì thế.
Theo : nld.com.vn