Hội An
là một trong những đô thị cổ, đến nay vẫn giữ được gần như nguyên vẹn.
Trong thời thịnh đạt, đặc biệt trong nửa đầu thế kỷ XVII, Hội An là
trung tâm mậu dịch lớn nhất của Đàng Trong và cả nước Đại Việt, là một
trong những thương cảng sầm uất của vùng biển Đông Nam Á. Tầu thuyền của
Nhật Bản, Trung Quốc, các nước vùng biển Đông Nam Á như Thái Lan
Philippin, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ… và một số nước Châu Âu như Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… hàng năm cập bến mở hội chợ từ 4
đến 6 tháng liền.
|
Hội An được coi là bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
|
Hội nghị lần thứ 23 của Ủy ban Di sản
Thế giới họp tại Marrakesh (Morocco), ngày 01 tháng 12 năm 1999 đã công
nhận Khu Phố cổ Hội An là Di sản văn hóa thế giới với tiêu chí (ii): là
một sự biểu thị vật chất nổi bật của sự hòa trộn của các nền văn hóa
vượt thời gian tại một thương cảng quốc tế, và tiêu chí (v): là một điển
hình nổi bật về bảo tồn một thương cảng châu Á cổ truyền. |
Sang thế kỷ XIX, hoạt động
kinh tế và vai trò của Hội An suy giảm dần, kết thúc thời kỳ thương
cảng thuyền buồm và nhường chỗ cho thương cảng thuyền máy Đà Nẵng phát
triển (từ cuối thế kỷ XIX). Nhưng cũng nhờ đó, Hội An được bảo tồn tương
đối nguyên vẹn cho đến ngày nay với tư cách một khu phố - thương cảng
cổ ở đó có di tích của các bến cảng, các phố cổ, các nhà ở kết hợp cửa
hàng của nhân dân, các hệ thống nhà thờ tộc họ, các đình chùa, đền miếu,
các hội quán của người Hoa, những ngôi mộ của người Nhật, người Hoa và
chiếc cầu mang tên cầu Nhật Bản…
Những
loại hình kiến trúc phong phú đa dạng đó, cùng với lối sống, phong tục
tập quán, lễ hội... của cộng đồng dân cư Hội An còn như tấm gương phản
ánh chặng đường dài của quá trình giao thoa, hội nhập, tiếp biến văn
hóa, tạo nên một sắc thái văn hóa riêng Hội An vừa mang tính dân tộc,
bản địa, vừa có sự hài hoà giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Đến
nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di
tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu
mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ... và những con đường hẹp
chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Cảnh quan phố phường
Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính. Cuộc sống thường nhật của cư
dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ
thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Sự
tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng
hiếm thấy trên thế giới và nó được xem như một bảo tàng sống về kiến
trúc và lối sống đô thị.
|
Đèn lồng - một nét Hội An. |
Độc đáo khu phố cổ
Khu
phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích khoảng 2 km², với những
con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn
cờ. Nằm sát với bờ sông là đường Bạch Đằng, tiếp đó tới đường Nguyễn
Thái Học rồi đường Trần Phú nối liền với Nguyễn Thị Minh Khai bởi Chùa
Cầu. Do địa hình khu phố nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, các con đường
ngang Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần Quý Cáp hơi dốc dần lên
nếu đi ngược vào phía sâu trong thành phố.
|
Đường Trần Phú. |
Đường
Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung nhiều nhất những công trình
kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc
Hội An. Nổi bật nhất trong số này là các hội quán do người Hoa xây dựng
để tưởng nhớ đến quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ thấy 5
hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng
Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội
quán Triều Châu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là miếu Quan Công,
di tích đặc trưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Việt
Nam. Ngay sát miếu về phía Bắc, có thể thấy Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
Hội An, nguyên trước đây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương.
Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con
đường này.
Theo
đường Trần Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Những ngôi nhà truyền thống ở đây được tu bổ và bảo tồn rất tốt, phần
lối đi bộ hai bên được lát gạch đỏ, phía cuối đường là vị trí của đình
Cẩm Phô. Phía Tây đường Nguyễn Thái Học có một dãy phố được hình thành
bởi những ngôi nhà có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía Đông
là khu phố mua bán nhộn nhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích
lớn. Bảo tàng Văn hóa Dân gian Hội An nằm ở con đường này là ngôi nhà
cổ lớn nhất khu phố cổ, có chiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét.
|
Đường Trần Phú về đêm. |
Hai
con đường Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn
đất bồi lấp. Đường Nguyễn Thái Học xuất hiện năm 1840, sau đó được người
Pháp đặt tên là Rue Cantonnais, tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch
Đằng ra đời năm 1878, nằm sát bờ sông nên xưa kia từng có tên gọi là
Đường Bờ Sông. Nằm sâu về phía thành phố, tiếp theo đường Trần Phú là
đường Phan Chu Trinh, con đường mới được xây dựng thêm vào khoảng thời
gian sau này. Trong khu phố cổ còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc
với đường chính kéo dài ra đến tận bờ sông.
|
Những con hẻm nối liền hai tuyến phố cũng là một nét thú vị của Hội An. |
Kiểu
nhà ở phổ biến nhất ở Hội An chính là những ngôi nhà phố một hoặc hai
tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài tạo nên kiểu nhà
hình ống. Bố cục mặt bằng phổ biến của những ngôi nhà ở đây gồm: vỉa hè,
hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau ba
gian, vườn sau. Thực chất, nhà phố ở Hội An bao gồm nhiều nếp nhà bố trí
theo chiều sâu và cấu thành không gian kiến trúc gồm 3 phần: không gian
buôn bán, không gian sinh hoạt và không gian thờ cúng. Điểm đặc biệt
này là một đặc trưng rất quan trọng của nhà phố Hội An
Chùa Cầu
Chiếc
cầu cổ duy nhất còn lại ở Hội An ngày nay là Chùa Cầu, còn có tên gọi
khác là Cầu Nhật Bản, dài khoảng 18 mét, bắc qua một lạch nước nhỏ chảy
ra sông Thu Bồn, nối liền đường Trần Phú với đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Cây cầu nhỏ này ngày nay đã trở thành biểu tượng của thành phố Hội An.
|
Chùa Cầu - biểu tượng của Hội An. |
Chùa
Cầu có một kiến trúc khá độc đáo, kiểu thượng gia hạ kiều, tức trên là
nhà dưới là cầu. Nhìn từ bên ngoài, cây cầu nổi bật nhờ hệ mái cong mềm
mại nâng đỡ bởi một hệ thống kết cấu gỗ, và phần móng được làm bằng vòm
trụ đá. Mặt cầu vồng lên kiểu cầu vồng, được lát ván làm lối qua lại,
hai bên có bệ gỗ nhỏ, trước kia làm nơi bày hàng buôn bán. Gắn liền với
cầu về phía thượng nguồn là một ngôi chùa rất nhỏ thờ Huyền Thiên đại
đế. Ngôi chùa nằm ngay cạnh cầu, ngăn cách bởi một lớp vách gỗ và bộ cửa
"thượng song hạ bản", tạo không gian riêng biệt. Trên cửa chùa treo bức
hoành màu đỏ với ba chữ "Lai Viễn Kiều" do chúa Nguyễn Phúc Chu ban
tặng vào năm 1719 với ý nghĩa cây cầu của những người bạn từ phương xa
đến. Ở mỗi đầu cầu, hai bên lối đi đều có hai bức tượng thú, một bên
tượng khỉ, bên kia tượng chó. Các tượng đều được chạm bằng gỗ mít trong
tư thế ngôi chầu, phía trước mỗi tượng có một bát nhang.
Lễ hội truyền thống
Ở Hội
An hiện nay vẫn gìn giữ được nhiều loại hình lễ hội truyền thống, như lễ
hội kính ngưỡng thành hoàng làng, lễ hội tưởng niệm những vị tổ sư
ngành nghề, lễ hội kỷ niệm các bậc thánh nhân, lễ hội tín ngưỡng tôn
giáo. Quan trọng nhất chính là những lễ hội đình ở các làng ven đô thị.
Mỗi năm, thường vào đầu mùa xuân, các làng lại mở lễ hội để kính ngưỡng
vị thánh của làng mình và tưởng nhớ công lao các vị tiên hiền. Lễ cúng
thường diễn ra trong hai ngày, ngày thứ nhất chỉ làm lễ cáo yết, ngày
thứ hai mới là ngày tế chính thức.
|
Lung linh đêm rằm Hội An. |
Vào
dịp rằm tháng giêng và rằm tháng bảy hàng năm, những người dân vùng Hội
An tổ chức lễ hội Long Chu tại các đình làng. Vào ngày lễ chính, toàn
thể dân làng rước Long Chu, một chiếc thuyền làm theo hình rồng, về đình
và người chủ bái cùng thầy phù thủy sẽ khai quan điểm nhãn cho Long
Chu. Sau nhiều nghi lễ cúng tế, buổi tối các tráng đinh đưa Long Chu đến
những nơi cần yểm và sau đó mang đốt rồi thả ra biển.
Tại
các làng chài ven sông, biển của Hội An, đua ghe là một sinh hoạt văn
hóa không thể thiếu, thường diễn ra trong dịp mừng xuân từ mùng 2 đến
mùng 7 tháng giêng, cầu ngư vào rằm tháng hai và cầu an vào khoảng trung
tuần tháng ba âm lịch. Trước đây, trong hội đua ghe, các yếu tố lễ, hội
đều được xem trọng, nhưng ngày nay, phần hội thường nổi trội hơn và
đọng lại lâu trong tâm thức mọi người.
|
Trong đêm rằm, Hội An "trở về quá khứ" cùng với các hoạt động lễ hội. |
Từ năm
1998, chính quyền Hội An bắt đầu tổ chức Lễ hội đêm rằm phố cổ vào mỗi
đêm 14 âm lịch hàng tháng. Trong khoảng thời gian từ 17 đến 22 giờ, tất
cả các ngôi nhà, hàng quán, tiệm ăn đều tắt điện, toàn bộ khu phố chìm
trong ánh sáng của trăng rằm và những ngọn đèn lồng. Trên các con phố,
những phương tiện giao thông tạm thời bị cấm, chỉ dành cho người đi bộ.
Tại các điểm di tích, nhiều hoạt động ca nhạc, trò chơi dân gian, thi
đấu cờ tướng, đành bài chòi, thả hoa đăng... được tổ chức. Khi các ngày
lễ lớn khác trùng vào đêm rằm, các hoạt động văn hóa sẽ phong phú hơn
với những vũ hội hóa trang, vịnh thơ Đường, múa lân... Khách du lịch đến
Hội An vào dịp đêm rằm sẽ được sống trong một không gian đô thị từ
những thế kỷ trước.
Song Nguyên (ảnh: Hà Tuấn, Thành Kông)