Ngày 01/10/2009, tại kỳ họp lần thứ 4
của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể (từ ngày 28/9 tới ngày 02/10/2009), Ca trù đã được công nhận là di
sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có
vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố.
|
Ca trù là một loại hình
nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng
âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn
chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Ca trù là một
sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Theo
các chuyên gia, Ca trù dưới hình thức ngày nay đã bắt đầu có từ thời nhà
Lê (thế kỷ XV) sau khi cây đàn đáy do Đinh Lễ (hay Đinh Dự theo một số
Giáo phường) sáng chế ra. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, Ca trù
đã ngày càng thâm nhập vào hầu hết các mặt của đời sống quá khứ và khẳng
định tư cách độc lập và độc đáo của nó trong bức tranh chung của văn
hóa dân tộc.
Trong
nghệ thuật Ca trù, thanh nhạc và khí nhạc luôn đi song song với nhau và
mỗi loại đều có nét đặc thù. Về thanh nhạc, ngoài hát tuồng có những kỹ
thuật phong phú và độc đáo, còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền khác đều
không có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như ca trù. Thể hiện rõ
nhất là khi đào nương cất tiếng hát, kỹ thuật hát rất điêu luyện, không
cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm
ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ. Hát trong cửa đình không cần
ngân nga. Hát chơi có cách đổ hột, đổ con kiến làm cho tiếng hát thêm
duyên, có khi như tiếng nức nở, thở than quyện vào lòng người.
Về khí
nhạc, ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt, đó là: Đàn đáy, phách và
trống chầu. Ba nhạc cụ cơ bản này gắn liền với ba nhân vật quan trọng
trong một cuộc hát, đó là: Kép (nam giới) - nhạc công chuyên chơi đàn
đáy; đào nương - ả đào (nữ giới) - hát và gõ phách và quan viên cầm chầu
là người đánh trống.
Nghệ
thuật Ca trù diễn ra trong các không gian ở đình làng, đền thờ thần, nhà
thờ tổ nghề, dinh thự và ca quán thính phòng. Cùng với đó là các hình
thức hát thờ, hát thi, hát tế tiên sư, hát chơi, không những đóng góp
vào sinh hoạt của cộng đồng làng xã, của giới trí thức mà còn góp phần
vào các hoạt động lễ tiết của nhà nước trong khuôn khổ của việc đón tiếp
ngoại giao. Quá trình này gắn liền với hoạt động của tổ chức giáo
phường (sinh hoạt và tổ chức giáo phường), cũng như các nét đẹp trong
sinh hoạt và quan hệ trong các giáo phường Ca trù.
|
Biểu diễn Ca trù. Ảnh: Hà Tuấn |
Về ca
từ: Lời lẽ, ca từ trong nghệ thuật Ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà
nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca
trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết
lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của
nhiều văn sĩ và trí thức. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ
trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối
hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách... mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị
của loại hình nghệ thuật này.
Về thể
cách: Trong nghệ thuật Ca trù, sự độc đáo không chỉ thể hiện ở việc sử
dụng khí nhạc, mà nó còn thể hiện trong các thể cách - các làn điệu hát,
hình thức diễn xướng múa, diễn, nghi lễ.... Tư liệu Hán Nôm đã ghi nhận
99 thể cách với 66 điệu thuần túy hát/nói/ngâm và 33 điệu có kèm diễn
xuất tổng hợp trong nghi lễ hát múa diễn. Có thể kể ra đây một số thể
cách ca trù phổ biến, còn lưu lại đến ngày nay: hát nói, đọc phú, giáo
trống, giáo hương, thét nhạc, ngâm thơ, hát truyện, bắc phản, Tỳ bà
hành, hát giai, hát ru, non mai, hồng hạnh, hát mưỡu, chừ khi, đại
thạch, hồi loan, gửi thư... Sự phong phú của các thể cách Ca trù có thể
được giải thích bởi sự đa dạng trong lối hát và hình thức biểu diễn của
nghệ thuật này.
Trong
nghệ thuật hát Ca trù, đào nương chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng,
quyết định sự tồn tại của loại hình nghệ thuật độc đáo này. Bởi chính họ
là người truyền tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của
ca trù, giúp Ca trù tồn tại cho đến ngày nay.
Một số tác phẩm nổi tiếng
Bài bản ca trù có nhiều
loại. Phổ thông nhất là hát nói, một thể văn vần có tính cách văn học
cao. Những bài hát nói nổi tiếng phải kể đến: Cao Bá Quát với "Tự tình",
"Hơn nhau một chữ thì", "Phận hồng nhan có mong manh", "Nhân sinh thấm
thoắt"...; Nguyễn Công Trứ với "Ngày tháng thanh nhàn", "Kiếp nhân
sinh", "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", "Trần ai ai dễ biết ai"...; Dương
Khuê với "Hồng hồng, tuyết tuyết" tức "Gặp đào Hồng đào Tuyết"; Chu Mạnh
Trinh với “Hương Sơn phong cảnh ca”; Tản Đà với "Gặp xuân",“Xuân tình”,
“Chưa say”; Nguyễn Khuyến với "Hỏi phỗng đá", "Duyên nợ"; Nguyễn Thượng
Hiền với "Chơi chùa Thày"; Trần Tế Xương với “Hát cô đầu”... Ngoài ra
còn có những làn điệu cổ điển khác như "Tỳ bà hành" (bản diễn Nôm của
Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị); những điệu huê tình, gửi thư,
bắc phản, hát giai... cũng thuộc thể ca trù.
|
Song Nguyên