Bốn tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu chủ yếu
là hàng gia công như túi xách, ví, vali, mũ và ô dù… của cả nước tăng
20,1% so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy, hàng thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam vẫn có sức hấp dẫn lớn với người nước ngoài. Thậm chí,
GS.TS Naohiro Kurose (đại học Kaetsu – Nhật Bản) phải khẳng định, Việt
Nam sở hữu nhiều món hàng thủ công độc đáo và chất lượng. Ông đánh giá
việc sản xuất trang phục truyền thống kimono xuất sang Nhật tại Ninh
Bình đạt chất lượng cao, được gia công công phu và “chất” hơn so với
hàng được sản xuất tại Nhật Bản.
Việt Nam hiện có khoảng 2.790 làng nghề thủ công
nhỏ, tạo công ăn việc làm cho khoảng 24% lao động nông thôn trong cả
nước. Tuy vẫn là công việc chính tại các làng nghề thủ công, đồng thời
tạo nên nét bản sắc cho văn hóa Việt nhưng nó vẫn chưa được quan tâm
đúng mức, dẫn tới sự phát triển “bất đối xứng” giữa tiềm năng và giá trị
thu được. Các đạo luật về thương hiệu và bảo vệ thương hiệu cho sản
phẩm thủ công Việt Nam vẫn chưa được thống nhất và không thực sự được
chú ý nên hiệu quả không cao, thậm chí nhiều lúc đã mất thương hiệu vào
tay người khác như việc đăng ký bản quyền nước mắm hay vụ tranh chấp
thương hiệu gạch ngói ở Phú Phong (Bình Định), vốn thuộc quyền sở hữu
của cư dân Tây Sơn từ 200 năm trước, nhưng lại bị một doanh nghiệp “đăng
ký thương hiệu” khiến mẫu mã gạch ngói Phú Phong điêu đứng, thậm chí
“suýt” bị đóng cửa vì sẽ bị coi là “hàng nhái”.
Tuy đã có một vài quy định về bảo vệ làng nghề thủ
công Việt Nam, nhưng vẫn chưa mang lại kết quả thiết thực như ở Điều 24:
Luật Di sản quy định Nhà nước khuyến khích duy trì, phục hồi và phát
triển các làng nghề thủ công truyền thống, Luật Sở hữu trí tuệ quy định
về đăng ký sáng chế đối với tri thức truyền thống… nhưng mọi chuyện vẫn
chỉ là để dân làng nghề tự lo, tự kiếm sống theo lẽ tự nhiên.
Theo ông Tạ Quang Minh, cục trưởng cục Sở hữu trí
tuệ, trưởng đoàn Việt Nam sang tham dự phiên họp lần thứ 50 của Đại hồi
đồng các quốc gia thành viên tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cuối
năm 2012 tại Thụy Sĩ cho hay, nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng làng
nghề truyền thống Việt Nam không được coi trọng là do các bên “ì ạch”
trong việc xây dựng bộ luật về bảo hộ tri thức truyền thống và văn hóa
dân gian trong phạm vi toàn cầu. Vấn đề mấu chốt là các nước vẫn chưa
đưa ra quan điểm thống nhất. Nói vậy để thấy, lỗi tại…toàn cầu nên các
làng nghề “bé nhỏ” tại Việt Nam mới bị bỏ mặc như vậy.
Trong bối cảnh hội nhập, giá trị tri thức văn hóa
Việt sẽ dễ bị “chảy máu”, các làng nghề thủ công đang ngày càng chán
nản,mệt mỏi vì làm ra sản phẩm không ai mua, vì thế, chả ai muốn làm
nghề truyền thống nữa vì không nuôi nổi bản thân và gia đình. Kết cục là
cốm làng Vòng…mất tích. Nón làng Chuông chỉ còn một vài nghệ nhân lớn
tuổi sống bằng việc bán sản phẩm cho đoàn nghệ thuật…Hoặc bị “biến
tướng” làm ăn gian dối nhuộm miến bằng hóa chất độc tại Dương Liễu, Hà
Tây, còn làng gốm Bát Tràng “bát nháo” với đầy sản phẩm Trung Quốc…
Muốn giữ nghề truyền thống, không có nghĩa là chỉ
lấy nghề cũ, sản phẩm cũ ra bán…suốt đời mà cần có sự vận hành, phát
triển sản phẩm theo cùng thời đại như các nghề truyền thống của Nhật Bản
đã làm được, có vậy, sản phẩm truyền thống chỉ là tạo bề dày uy tín cho
sản phẩm, còn có tồn tại được hay không lại nhờ vào sản phẩm có phù hợp
với thị trường hiện tại.
Làm được điều đó cần những cái đầu sáng, tâm huyết
thì may ra làng nghề truyền thống còn có hy vọng, chứ cứ manh mún, lo
chạy bữa từng ngày, người nông dân khó mà nghĩ nổi tương lai, họ vẫn
trông chờ cả vào nhà nước. Còn các bộ ngành vẫn chỉ lợi dụng làng nghề
bằng dăm ba đồ mỹ nghệ khảm trai, sơn mài…xuất khẩu. Chẳng trách kim
ngạch xuất nhập khẩu năm ngoái chỉ đạt 1,5 tỉ USD trong tổng số hơn 100
tỉ USD kim ngạch xuất khẩu của nước ta, một con số khá khiêm tốn. Nhưng
cũng cho thấy, chẳng ai quan tâm đến làng nghề thủ công cũng như mở ra
lối đi nào sáng sủa hơn cho những làng nghề truyền thống này, trừ khi họ
tự vật lộn, trăn trở với chính sản phẩm của mình để tìm lối ra, may ra
thì được vỗ tay ủng hộ, còn không thì…kệ!
Theo: Sống Mới