Tăng trưởng chậm dần
|
Ngành
gỗ Việt Nam hiện có khoảng 4.300 DN, với hàng trăm nghìn lao động hiện
đang tham gia các hoạt động khác nhau tại các DN chuyên về thương mại,
chế biến. Bên cạnh đó còn có hàng trăm nghìn hộ gia đình hiện đang tham
gia các hoạt động chế biến, thương mại tại các làng nghề truyền thống,
các cơ sở chế biến, thương mại quy mô hộ gia đình nằm rải rác tại các
địa phương. Khoảng trên 95% các DN gỗ có quy mô nhỏ, sở hữu tư nhân, với
số lượng dưới 50 lao động/DN.
|
|
Vào thời hoàng kim, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ đã từng tăng trưởng trên
dưới 30% mỗi năm. Nhưng những năm gần đây, mức tăng trưởng ngày càng
chậm lại và đến năm 2016 thì tăng trưởng chỉ vỏn vẹn 1,1%. Sự chững lại
này được cho là do những yếu kém nội tại của chính ngành gỗ trong nước.
Theo ông Tô Xuân Phúc, đại diện Tổ chức Forest Trend, giá của sản phẩm
gỗ hiện phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thiết kế kiểu dáng mẫu mã, sự
kết hợp các chất liệu trong sản phẩm và mối quan tâm của người mua hàng
về các vấn đề có liên quan đến môi trường, xã hội. Điều này đã chứng tỏ
sự sai lầm của quan niệm cho rằng chi phí sản xuất thấp là lợi thế cạnh
tranh của ngành gỗ Việt Nam. Điển hình như ngành chế biến gỗ Đài Loan,
với giá nhân công đắt đỏ và nguyên liệu đầu vào khan hiếm, nhưng hiện là
một trong những quốc gia đứng đầu châu Á về lợi thế cạnh tranh. Qua đó
cho thấy, ai kiểm soát các yếu tố mẫu mã, thị trường sẽ là người đạt
được lợi nhuận cao hơn. Trong khi đó, thời gian qua các DN chế biến gỗ
của Việt Nam thiếu các ưu tiên về phát triển nguồn nhân lực cho khâu
nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Kết quả là lợi nhuận trên một đơn vị
sản phẩm chủ yếu tập trung cho nhóm kiểm soát thiết kế mẫu mã và thị
trường chứ không phải là các nhà chế biến trong nước. Điều này thể hiện
qua việc phần lớn sản phẩm gỗ của Việt Nam là sản phẩm gia công cho các
tập đoàn nước ngoài.
Theo Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam
(VIFORES), hiện các sản phẩm gỗ đa dạng của Việt Nam có mặt tại trên 120
quốc gia và vùng lãnh thổ, với kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm
đạt khoảng 6-7 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm Hoa Kỳ,
Trung Quốc, EU và Nhật Bản. Các sản phẩm xuất khẩu chính bao gồm bàn,
ghế, đồ gỗ nội thất với kim ngạch xuất khẩu chiếm 70% trong tổng lượng
kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Tuy nhiên, cầu từ thị trường xuất khẩu,
bao gồm cả về chủng loại sản phẩm, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng… lại phụ
thuộc gần như hoàn toàn vào người mua nước ngoài. Nói cách khác, mặc dù
cầu đa dạng và ngành gỗ Việt Nam được coi là hội nhập sâu với thị trường
quốc tế, ngành chế biến gỗ Việt Nam chưa tạo được thương hiệu riêng cho
mình và hầu như chưa có ảnh hưởng đến cầu thế giới. Điều này đã làm hạn
chế rất lớn sự cạnh tranh của ngành trên thị trường quốc tế.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, với dân số
trên 90 triệu dân, tầng lớp trung lưu lớn và không ngừng mở rộng, nhu
cầu của thị trường nội địa đối với các sản phẩm gỗ là rất lớn và đa
dạng, bao gồm các sản phẩm gỗ trong xây dựng, đồ gỗ nội, ngoại thất, gỗ
sử dụng làm tàu thuyền… Tuy nhiên, hiện các thông tin về thị trường nội
địa như quy mô, nhu cầu và chủng loại sản phẩm rất hạn chế. Nhiều ý kiến
cho rằng hiện các sản phẩm nội thất nhập khẩu đã bao chiếm toàn bộ thị
trường nội địa và các DN Việt đang “bỏ ngỏ” thị trường nội địa. Bài học
từ Thái Lan cho thấy thị trường nội địa là thị trường màu mỡ cho DN, và
có độ ổn định rất lớn, khác hẳn so với thị trường xuất khẩu. Chen chân
vào thị trường nội địa sẽ là khó khăn rất lớn cho nhiều DN Việt hiện
nay. Do đó, cần có chính sách khuyến khích các DN Việt Nam phát triển
thị trường nội địa, khuyến khích người Việt sử dụng sản phẩm Việt nhằm
chiếm lĩnh thị trường nội địa trong tương lai.
Khát lao động tay nghề cao
Để phát triển được khâu thiết kế, trình độ
nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng. Theo ông Nguyễn Tôn Quyền,
Phó Chủ tịch VIFORES, khoảng 70-80% lao động của ngành chế biến gỗ hiện
nay đều có xuất phát điểm là lao động phổ thông, phần còn lại là kỹ sư
ngành chế biến gỗ (1-2%) và công nhân kỹ thuật được đào tạo bài bản
(18-29%). Mặc dù nguồn lao động phổ thông dồi dào, song rất ít người
trong số này có tay nghề cao. Các DN thường phải đầu tư các nguồn lực để
đào tạo công nhân khi mới bước vào nghề. Tuy nhiên, hiện tượng lao động
sau khi đã được nâng cao tay nghề chạy sang các cơ sở sản xuất chế biến
có mức lương cao hơn như các DN FDI (khoảng 600 DN) vẫn diễn ra phổ
biến, từ đó làm hạn chế mong muốn đầu tư vào nâng cao tay nghề cho người
lao động và mức độ gắn kết giữa chủ DN và người lao động.
Các chuyên gia đánh giá, đến nay ngành chế
biến gỗ vẫn phát triển một cách tương đối tự nhiên, với các chính sách
tương đối mở, tạo cơ hội cho ngành gỗ phát triển. Tuy nhiên, hiện ngành
đang cần có các chính sách mới, trong đó tập trung ưu tiên vào việc tăng
trưởng có chất lượng và tăng trưởng bền vững, với các sản phẩm có giá
trị gia tăng cao hơn. Điều này có liên quan đến việc đổi mới mô hình đào
tạo thông qua việc gắn kết trực tiếp giữa các cơ sở đào tạo lý thuyết
(các trường) và thực tế (các DN) nhằm tạo đội ngũ lao động có tay nghề
cao. Mặc dù Việt Nam đã hình thành hệ thống các trường đại học và cao
đẳng nghề trên cả nước đào tạo kỹ sư và công nhân ngành lâm nghiệp, với
lượng sinh viên lên tới hàng chục nghìn người mỗi năm, nhưng kết nối
giữa các cơ sở đào tạo và các DN thường yếu. DN thường phải đào tạo lại
các công nhân đã được đào tạo bởi các cơ sở này. Do đó, liên kết giữa cơ
sở đào tạo và DN cần được ưu tiên hình thành và phát triển trong tương
lai. Có thể tham khảo mô hình liên kết của Thái Lan với sự tham gia của
các cơ sở đào tạo (trường đại học), Phòng Thương mại và Công nghiệp
Thái Lan, và DN chế biến gỗ. Trong mô hình này, một số DN chế biến với
sự hỗ trợ của Phòng Thương mại và Công nghiệp đã xây dựng nội dung
chương trình đào tạo tại cấp DN. Các sinh viên được lựa chọn tham gia
vào các chương trình đào tạo lý thuyết tại các trường, sau đó được gửi
xuống các DN và được đào tạo trực tiếp thông qua thực hành công việc tại
các cơ sở chế biến. Toàn bộ các chi phí đào tạo, bao gồm cả học bổng
cho sinh viên được các DN chi trả. Sau quá trình đào tạo, các sinh viên
sẽ được nhận làm việc trực tiếp trong các DN. Mô hình kết nối đào tạo
này đã tạo được kết nối cung - cầu, với sản phẩm đầu ra của đào tạo đáp
ứng trực tiếp với các nhu cầu công việc tại DN.
Theo: baohaiquan.vn