Bài 1: Đa dạng sản phẩm làng, xã
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), cả nước
hiện có hơn 56.000 doanh nghiệp, 797 HTX, 119 tổ hợp tác và gần 330.000
hộ gia đình tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn. Đến nay, cả nước
có 5.411 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 1.864 làng nghề, làng
nghề truyền thống và 115 nghề truyền thống đã được công nhận. Một số
làng nghề từng bị mai một trong thời kỳ bao cấp, đang dần được khôi
phục và phát triển.
Một mô hình, hai cách thực hiện
Hiện số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn tăng lên với tốc độ bình
quân từ 8,8 đến 9,8%; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân của
làng nghề khoảng 15%. Hoạt động sản xuất của làng nghề đã thu hút 30%
số lao động và tạo việc làm cho khoảng 11 triệu lao động nông thôn, với
thu nhập ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, hàng thủ công mỹ nghệ trở
thành mặt hàng chủ lực, từ năm 2000, kim ngạch xuất khẩu luôn đạt tốc
độ tăng trưởng hơn 12% mỗi năm.
Trung tuần tháng 3 này, chúng tôi về làng sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ
truyền thống Phù Khê Thượng (xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh).
Những công trình kiến trúc đình chùa miếu mạo trên vùng đất Kinh Bắc
xưa, rất nhiều là do những tốp thợ Phù Khê làm nên. Ngoài nghề đục chạm
làm nhà cửa, đình chùa..., người làng Phù Khê còn làm đồ gỗ dân dụng,
đồ gỗ mỹ nghệ, như hương án, tủ sách, hoành phi, câu đối, tượng Phật,
tràng kỷ, tủ chè, hộp, tráp… Có loại đồ gỗ được khảm trai, chạm thủng,
có loại chạm kênh bong, hoặc chạm nổi, chạm chìm... được khách hàng
trong nước và ngoài nước yêu thích.
Ngày nay, người làng Phù Khê vẫn tiếp nối nghề truyền thống, gây dựng
và phát triển mạnh mẽ. Trong tổng số 2.600 hộ của xã, có tới 90% số hộ
làm đồ gỗ mỹ nghệ. Bác Ngô Đình Nhân, chủ cơ sở sản xuất gỗ lớn trong
vùng cho biết: Từ năm 1997 khi Bắc Ninh tách tỉnh, kinh tế địa phương
phát triển, giao thương hàng hóa bắc-nam thông suốt, nghề gỗ mỹ nghệ
truyền thống cũng phát triển theo, thu nhập của hộ dân tăng đều.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy, mô hình “Mỗi
làng một sản phẩm” tại Phù Khê còn tự phát, ngẫu hứng, chỉ hoạt động
mang tính duy trì truyền thống, chưa có chiến lược phát triển thương
hiệu rõ ràng theo nhu cầu mới của thị trường.
Chúng tôi tiếp tục tìm hiểu mô hình dạng này, nhưng có tính tổ chức
cao hơn ở Quảng Ninh. Từ năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt, triển khai đề
án “Tỉnh Quảng Ninh - Mỗi xã, phường một sản phẩm”, mục tiêu phấn đấu
trở thành tỉnh đầu tiên của cả nước triển khai chương trình bài bản, có
hệ thống. Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Đặng Huy Hậu, đây là
chương trình được vận dụng, phát triển trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” của Nhật Bản và chương
trình mục tiêu quốc gia “Mỗi cộng đồng một sản phẩm” của Thái-lan, với
mục tiêu: Hỗ trợ hoàn thiện quy trình sản xuất, phát triển chuỗi giá trị
các sản phẩm đặc sản địa phương từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
Câu chuyện sản xuất miến dong tại Bình Liêu là một thí dụ. Đây là
huyện miền núi phía đông bắc tỉnh Quảng Ninh, thuộc nhóm huyện có tỷ lệ
đồng bào dân tộc thiểu số cao nhất cả nước; thu nhập bình quân đầu
người chỉ đạt 30% của tỉnh và 50% của cả nước; tỷ lệ hộ nghèo năm 2014
là 11,16% theo tiêu chí mới, cao hơn 6,6 lần so với tỷ lệ hộ nghèo toàn
tỉnh. Nhưng từ năm 2006, Bình Liêu đã khai thác thế mạnh của địa
phương trong tổ chức sản xuất theo hướng “Mỗi xã, phường một sản phẩm”,
để tăng thu nhập cho người dân, như: “Miến dong”, “Dầu sở” và “Mật ong
Bình Liêu”. Trong đó, trọng tâm là khôi phục nghề miến dong truyền
thống, với đầu tàu là Công ty CP Thương mại và Dịch vụ Bình Liêu. Ngay
từ những năm đầu sản xuất miến, địa phương xác định phải xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm, quan tâm chất lượng và mẫu mã hàng hóa. Năm
2007, thương hiệu “Miến dong Bình Liêu” được bảo hộ độc quyền nhãn hiệu
chứng nhận tại Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ). Hiện
nay, sản phẩm được bán tại nhiều tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hải Phòng,
Thái Bình, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh..., với mẫu mã ngày càng cải thiện,
sản lượng tăng trưởng theo từng năm. Ước tính có hơn 2.000 hộ đồng bào
dân tộc trên địa bàn trồng dong riềng bán cho doanh nghiệp (DN), với
thu nhập trung bình từ 3 triệu đồng đến 50 triệu đồng mỗi hộ, góp phần
xóa đói, giảm nghèo ở địa phương.
Nhân rộng mô hình
Ông Tăng Minh Lộc, Phó Chủ tịch Hội Phát triển khoa học nông nghiệp
Việt Nam đánh giá: Từ kết quả của Quảng Ninh và một số tỉnh, thành phố
đã khẳng định ý nghĩa của chương trình “Mỗi làng một sản phẩm”, bởi nó
giúp nâng cao hoặc phát triển mới, tạo ra nhiều sản phẩm tốt, chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường. Qua đó tăng thu nhập cho các
thành viên tham gia, trước hết là cư dân nông thôn. Đây là giải pháp
thiết thực, rất phù hợp yêu cầu cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới.
Để nhân rộng những mô hình như ở Quảng Ninh, không chỉ tuyên truyền,
hô hào suông mà cần tìm ra những giải pháp mang tính thực tiễn cao.
Đồng chí Đặng Huy Hậu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh khẳng định,
mấu chốt cơ bản làm nên thành công cho mô hình là xác định đúng sản
phẩm và tổ chức kinh tế, đồng thời chỉ đạo để thực hiện tốt cả hai vấn
đề này.
Về sản phẩm, thông tin thị trường mà hộ sản xuất cần là nhu cầu chủng
loại sản phẩm, chất lượng, sản lượng, giá cả, thị hiếu, mẫu mã bao bì,
quy trình sản xuất, pháp lý. Vấn đề này các hộ thực hiện được một
phần, Nhà nước phải đóng vai trò chính, để giải quyết khâu kết nối thị
trường và xác định, phân tích lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Khi xác
định được nhu cầu thị trường thì các hộ tập trung sản xuất, hằng năm
cải tiến nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm. Theo chu trình OCOP
(mỗi làng một sản phẩm) hộ sản xuất luôn có cơ hội tham gia, không phải
bỏ cuộc, còn thị trường ngày càng có sản phẩm hoàn chỉnh.
Về tổ chức kinh tế, muốn thông tin thị trường đến được nhà sản xuất
và phát huy được thì nhà sản xuất nên là tổ chức kinh tế. Trong chương
trình OCOP tại Quảng Ninh, đã tập trung vào tổ chức kinh tế cộng đồng,
như HTX, các DN nhỏ và vừa, định hướng phát triển và ưu tiên công ty cổ
phần. Khi có ý tưởng thì DN, HTX được thành lập hoặc tái cấu trúc, hay
ngược lại DN, HTX được thành lập để sản xuất sản phẩm cụ thể. Ban điều
hành OCOP các cấp có trách nhiệm tư vấn, tập huấn, hỗ trợ thủ tục để
người sáng lập DN, HTX hiểu được Luật DN, Luật HTX, xác định cơ cấu,
quy mô vốn cho dự án sản xuất, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản trị
sản xuất. Đây là khâu rất khó và kỳ công, tốn nhiều thời gian, nhưng nếu
giải quyết được sẽ là chìa khóa để mô hình “Mỗi làng một sản phẩm”
phát triển bền vững.
Theo các chuyên gia ngành nghề nông thôn, muốn nhân rộng nhanh mô
hình, Chính phủ cần đưa chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” thành
chương trình quốc gia (nằm trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới) nhằm tạo thế và lực cho phát triển. Đồng thời, phải
có chính sách hỗ trợ ban đầu cho địa phương khi “khởi nghiệp”, hoặc hỗ
trợ nhóm “sản phẩm địa phương” trong chiến lược phát triển thành nhóm
“Sản phẩm tỉnh, thành, sản phẩm quốc gia”.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đã xây dựng đề án thí điểm mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” thực hiện
theo hai giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1 (2017-2019), sẽ chọn bảy
tỉnh, thành phố có điều kiện về cơ sở hạ tầng, tiềm năng và đại diện
cho bảy vùng kinh tế có lợi thế về phát triển các sản phẩm đặc sản,
có nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng hóa. Giai đoạn 2, từ
sau năm 2019, sẽ xây dựng đề án chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”
Việt Nam, tổ chức trên phạm vi quốc gia, trên cơ sở đánh giá, rút
kinh nghiệm từ kết quả triển khai các mô hình tại bảy địa phương của
giai đoạn 1.
|