Phát biểu tại diễn đàn “Làng nghề Việt Nam phát triển và hội nhập, góp phần xây dựng nông thôn mới” (10)KHÓ KHĂN CẦN THÁO GỠ CỦA SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM KHI ĐƯA RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
Langnghevietnam.vn- Vicrafts.vn - Ban truyền thông- QHQT HHLN xin được trích đăng tham luận tham gia hội thảo của Bà Hà
Thị Vinh - Giám đốc Công ty TNHH
Quang Vinh
Bà Hà Thị Vinh đang trình bày tham luận
1. Những yếu tố gắn kết khách hàng với
các sản phẩm làng nghề
Để khách hàng có thể quan tâm tới các
sản phảm của làng nghề Việt Nam
cần tập trung các yếu tố chính sau:
- Thông tin, mẫu mã sản phẩm
- Giá thành
- Hệ thống dịch vụ
1.1. Thông tin, mẫu mã sản phẩm.
Các sản phẩm làng nghề Việt Nam hiện
nay khá phong phú về chủng loại, nhiều sản phẩm có chất lượng và truyền thống
lâu năm, tuy nhiên chưa hình thành một hệ cơ sở dữ liệu đầy đủ và thuận tiện
cho việc tìm kiếm và thăm quan. Đặc biệt giới thiệu về xuất xứ và chứng nhận về
chất lượng sản phẩm .
Để thấy được giá trị của các sản phầm
làng nghề khách hàng thường yêu cầu phải được tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm,
cần hiểu rõ hơn giá trị của sản phẩm từ lịch sử hình thành, nguyên liệu chế
tác, sản xuất, sự tinh sảo và sự khác biệt.
Sản phẩm của làng nghề Việt Nam có
thể được phân thành 2 nhóm: nhóm thứ nhất là các sản phẩm đặc trưng, tinh sảo
của các nghệ nhân và thứ hai là các sản
phầm làng nghề thương mại phục vụ đời sống. Đối với sản phẩm nhóm thứ nhất các
khách hàng tiềm năng hướng tới thường là các cơ quan nhà nước , các cở sở xã
hôi ( nhà chùa, nhà thờ, lễ hội, dòng họ
…), các công ty , các tổ chức, tư nhân
yêu thích sưu tầm đồ cổ, mỹ nghệ,
hàng đặc trưng, độc đáo và trang trí cao cấp. Đối với các sản phẩm thuộc nhóm
thứ hai chủ yếu là phục vụ nhu cầu đời sống thường nhật, dùng để trang trí, quà
lưu niệm, do đó khách hàng hướng tới tập trung là các nhà kinh doanh, đơn vị
thuơng mại và khách du lịch.
Hiện tại các sản phẩm của làng nghề hay
được giới thiệu đến khách hàng :
- Thông qua các kênh thông tin như
truyền thông, báo chí, các trang web của các công ty dịch vụ hay của một cơ sở
sản xuất, của một làng nghề v.v- Các hôi chợ triển lãm các sản
phẩm làng nghề Việt Nam
với các quy mô từ tỉnh đến cả nước, thông thường mỗi năm có vài lần trong nước
và một số chương trình nhỏ đi ra nước ngoài.
- Các tua du lịch thăm quan các làng
nghề tại một số địa phương.
-
Các phòng trưng bày sản phẩm của một số công ty thương mại, các cửa hàng nhỏ
phục vụ khách du lịch tại các thành phố hay các trung tâm du lịch, lễ hội.
Có thể nói hiện tại việc cung cấp thông
tin, giới thiệu các sản phẩm làng nghề Việt Nam còn quá ít sản phẩm, rời rạc,
phân tán, chưa chuyên nghiệp và thiều tính quốc tế1.2. Giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm làng nghề Việt Nam
phụ thuộc chính vào chi phí sản xuất (
giá nguyên liệu, nhân công, công nghệ, dịch vụ thương mại …). Thông thường các
làng nghề truyền thống tập trung ở các khu vực ven đô thị và đồng bằng, tuy nhiên hiện tại các vùng nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất của làng nghề hầu như không còn hoặc rất thiều. Chính vì
vậy phải khai thác nguyên liệu từ các
vùng ở xa, cũng như do can kiện nguồn cung nguyên liệu nên đã đẩy chi phí sản
xuất lên cao. Mặt khác do phương thức sản xuất truyền thống, thủ công chưa tạo
ra nhiều chủng loại mẫu mã để sản xuất đại trà với chất lượng đồng đều, giá
cạnh tranh.Với các sản phẩm làng nghề thuộc nhóm thứ nhất không có bộ phận định
giá, người sản xuất ít có cơ hội tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên thường bị
thua thiệt về giá, mặc dù có nhiều sản phẩm thuộc loại quý hiếm, độc mẫu. Đối
với các sản phẩm làng nghề thuộc nhóm thứ hai chưa hình thành được cơ chế, hệ
thống hỗ trợ sản xuất từ mẫu mã, tài chính, vùng nguyên liệu, tổ chức sản
xuất, giám sát chất lượng, hệ thống phân
phối v.v chính vì vậy thường đẩy giá thành cao lên thiếu hệ thống bảo hành, bảo trì sản phẩm v.v
1.3
Hệ thống dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Do tính đa dang, phong phú chủng loại
và trải rộng trên nhiều địa phương nên của các sản phẩm làng nghề, nên việc
hình thành hệ thống dịch vụ khách hàng còn nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ, chuyên
nghiệp. Có nhiều khâu trung gian làm cho khách hàng không phân biệt được sản
phẩm chính hiệu, giá gốc. Thậm chí cùng sản phẩm, cùng thương hiệu của một làng nghề nhưng chất lượng lại không
đồng nhất, chưa có nhiều sản phẩm đăng ký thương hiệu và chứng nhận chất lượng
sản phẩm, vì vậy khó trở thành các sản phẩm thương mại xuất khẩu. Mặt khác do
các làng nghề dàn trải phân tán nên việc tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm của
khách hàng còn gặp rất nhiều khó khăn. Các khách hàng thường có
nhu cầu mua nhiều chủng loại sản
phẩm cùng một lúc, nhưng chưa có nhiều đơn vi thương mại, dịch vụ giúp khách
hàng từ khâu sản xuất, đóng gói, vận chuyển, thanh toán và bảo hành. Cả nước
hay các khu vực, các tỉnh thành chưa có các trung tâm giới thiệu sản phẩm làng
nghề tập trung cũng như cung cấp nguyên
vật liệu, công nghệ phục vụ sản xuất. Đây cũng chính là một trở ngại lớn cho
khách hàng khi tìm kiến, mua sản phẩm làng nghề.
Một số phương hướng hỗ trợ gắn kết
khách hàng với các sản phẩm làng nghề trong hội nhập ASEAN
Quá trình hội nhập ASEAN 2015 là thách
thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là cho các doanh nghiệp, các hộ
sản xuất các sản phẩm làng nghề Việt Nam. Nhiều khả năng chúng ta lại thua
thiệt ngay trên sân nhà. Một phần do khả năng hạn chế, yếu của các đơn vị sản
xuất ( thường là kinh tế hộ gia đình), mặt khác do hệ thông phân phối ( bao gồm
xuất nhập khẩu, bán buôn, bán lể) cho các sản phẩm làng nghề còn quá yếu kém.
Thông thường các sản phẩm của làng nghề các nước cũng có những chủng loại, mẫu mã tương tự, các
khách hàng, nhất là các nhà nhập khẩu thường tìm đến các cơ sở, địa điểm kinh
doanh thuận tiện, giá cả và dịch vụ hợp lý. Chính vì vậycác nước cạnh tranh tổ
chức hội chợ quốc tế về các sản phẩm làng nghề, xây dựng các khu trưng bày sản
phẩm làng nghề tập trung trong cả nước hay trong khu vực ASEAN. Khi đó nhiều
sản phẩm làng nghề Việt Nam
sẽ phải bán thông qua các hệ thống giới thiệu và phân phối của nước ngoài, lâu
dài sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào họ.
Một số kiến nghị, đề xuất :
- Chính sách: Nhà nước cần có các chính
sách hỗ trợ tổng thể cho việc sản xuất và tiệu thụ các sản phẩm làng nghề Việt Nam bao gồm
như:
+ Các chính sách hỗ trợ về tài chinh
giúp các cơ sở sản xuất làng nghề trở thành các doanh nghiệp, hỗ trợ sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm.
+ Các chính sách hỗ trợ quy hoạch tạo
vùng nguyên liệu bền vững, hỗ trợ sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, hỗ trợ sử
dụng công nghệ, nghiên cứu mẫu mã, đào tạo, cũng như xây dựng các hệ thống phân
phối, tổ chức hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, đặc biệt xây dựng các
trung tâm giới thiệu sản phẩm làng nghề tập trung quy mô cả nước, khu vực.
+ Các chính sách gắn kết, phối hợp đồng
bộ các hiệp hội, các đơn vị quản lý hành chính liên quan tới hoạt động sản
xuất, bảo tồn. phân loại, kinh doanh các sản phẩm làng nghề v.v
+ Đẩy mạnh chính sách người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, nhất là
đối với các sản phẩm của làng nghề. Các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức
cần tiên phong trong sử dụng các sản phẩm làng nghề nhằm tạo thêm đầu ra, uy
tín thương hiệu cho sản phẩm làng nghề Việt Nam
- Các hiệp hội làng nghề xây dựng lộ
trình thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm làng nghề, đào tạo và
phát triển nghề cho các đia phương. Giúp doanh nghiệp, các làng nghề xây dựng
thương hiệu, đánh giá giá trị, chất lượng của các sản phẩm làng nghề. Hỗ trợ,
hợp tác với các doanh nghiệp chủ chốt để tổ chức các trung tâm cung cấp nguyên
vật liêu,trung tâm giới thiệu sản phẩm xuất nhập khẩu, bán buôn tập trung của cả
nước, của khu vưc, trung tâm dữ liệu, cung cấp thông tin, hệ thống phân phối,
cũng như chuyển giao công nghệ, xử lý môi trường v.v cho các sản phẩm làng nghề
Việt Nam.
- Đối với các doanh nghiêp sản xuất và
kinh doanh các sản phẩm làng nghề: Liên kết tạo nên sức mạnh từ khâu cung ứng
nguyên vật liệu, tạo mẫu mã, sản xuất, phân phối, giới thiệu sản phẩm v.v hướng
tới mục tiêu phong phú chủng loại, chất lượng cao, giá thành hạ, cạnh tranh,
cũng như xây dựng hệ thống hỗ trợ khách hàng đồng bộ , thuận tiện từ các khâu
quảng bá,ký hết hợp đồng, triển khai thực hiện, thanh toán, báo hành, bảo trì
sản phẩm v.v
Có thể nói hội nhập ASEAN vừa là cơ
hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp làng
nghề. Tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng gắn kết bền vững , kinh doanh hiệu
quả khi mua, sử dụng các sản phẩm làng nghề Việt Nam là chìa khóa thành công
cho việc duy trì và phát triển các sản phẩm làng nghề Việt Nam trong hội nhập
quốc tế.
Ban truyền thông - Hợp tác quóc tế HHLN
Còn nữa...