Dưới thời chúa Nguyễn, vùng phá Tam Giang từng là hiểm địa, vắng người lui tới: Sợ Truông nhà Hồ sợ Phá Tam Giang.
Do có địa thế nối với sông Hương, nên mỗi khi ghe thuyền đi từ biển vào
vùng đầm phá, theo sông Hương lên kinh thành, cửa phá có dòng chảy
xiết, luồn lạch biến đổi tạo thành sóng lớn gây đắm chìm tàu thuyền.
Quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu sai người
đào bới mở rộng cửa phá, cho nên sóng dữ mới không còn. Từ đó Phá Tam
Giang trở thành một vùng bình yên, nơi mưu sinh trù phú của những cư dân
tập trung trên đầm phá.
Những cư dân quần tụ trên Phá Tam Giang
được gọi là người thủy diện (người sống trên mặt nước), với tính cách
lang bạt có sẵn đã biến những khu vực cư trú của họ trên đầm phá trở
thành lãnh thổ khó xâm phạm. Xét về mặt hành chính, người thuỷ diện ngày
xưa như những đứa con hoang, không được xã hội thừa nhận. Bởi trong xã
hội phong kiến, với yếu tố trọng nông – dĩ nông vi bản – có nghĩa lấy
nghề nông làm gốc, thì các nghề khác đều bị xem nhẹ, trong đó nghề ngư
nghiệp còn được xem là nghề mạt hạng, sự nghiệt ngã của quan niệm ấy
khiến người thuỷ diện thường bị xã hội coi khinh, miệt thị, bị cho là ăn
bám, ký gửi, họ không được đăng ký hộ tịch, thậm chí khi chết không có
đất để chôn.
Đến thời Tự Đức xuất hiện một người có
nguồn gốc là cư dân thủy diện, học hành thi cử đỗ đạt, sau trở thành
thượng thư, tên là Hoàng Hữu Thường, do là người thủy diện nên ông
thương xót cư dân đồng cảnh ngộ với mình và cảm thấy một sự thiếu công
bằng giữa nông và ngư, ông bàn triều đình biên chế toàn bộ người thủy
diện ở vùng kinh sư thành một tổng, như một tổ chức đơn vị hành chính
trên bộ, gọi là tổng võng nhi – nghĩa là con nhà chài lưới.
Căn cứ trên việc tụ cư khắp các lưu vực
sông của tam giang, sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, tập hợp đổ ra Phá,
biên chế toàn bộ các vạn trên đầm phá và 3 sông đó thành 13 làng, những
khu vực vạn sống kế cận nhau người ta xây dựng tổ chức liên vạn gọi là
làng trên mặt nước, làng thủy diện ra đời, các làng nằm trong biên chế
tổng võng nhi, từ đó cư dân sông nước bắt đầu có đăng ký hộ tịch.
Với diện tích hơn 22.000 hecta, phá
Tam Giang là nguồn cung cấp dồi dào các sản vật cho người thuỷ diện,
những thuỷ điền được cắm cọc, phân lô rõ rệt với nò sáo – một lối đánh
bắt hải sản từ xa xưa và đặc trưng của Phá Tam Giang vẫn còn nguyên vẹn
và thấy rất rõ trong suốt hành trình lênh đênh theo người thuỷ diện trên
đầm phá.
Và để cầu khẩn cho một năm đánh bắt
bội thu, từ xa xưa, cư dân thủy diện lưu giữ một lễ cầu ngư, nay thường
diễn ra ở làng Ngư Mỹ Thạnh trên Phá Tam Giang. Từ sớm tinh mơ, cư dân
làng chài Ngư Mỹ Thạnh quần tụ ghe chài trên đầm phá, ngay trước đình
làng để chuẩn bị cho lễ cúng. Phần lễ vật được ngư dân đóng góp đơn sơ,
giản dị, bàn thờ chính được lập nên ngay trước đình làng, chia làm hai
phần, bên là sơn thần, bên là thủy thần. Mâm cúng ở bàn thờ chính ngoài
các lễ vật hoa trái, vàng mã, còn có một con cá đối (cúng thủy thần) và
một con gà (cúng sơn thần), gửi gắm lời khấn nguyện mong thần thánh ban
cho người thủy diện những lễ vật mà họ dâng lên bàn thờ trong lễ cúng.
Ở gian bếp của đình làng, cánh phụ nữ
rộn ràng đồ xôi, luộc gà, chuẩn bị sắp mâm rượu để các vị bô lão của
làng đại diện rước những lễ vật ấy bày biện ra trước bàn thờ chính trình
lên thần linh và tổ tiên. Sau những lời khấn nguyện của người đại diện ở
bàn thờ chính, người làng sắp thêm một mâm cúng khác, trên đó có bày
đĩa khoai củ và một con cá giỏi, ông Đào Tốn – bô lão của làng Ngư Mỹ
Thạnh giải thích: “Hàng năm trên đầm phá thường có những nạn nhân chết
do tai nạn, bão lũ, có nhiều người không bà con thân thuộc, không ai lo
cúng giỗ cho nên người làng lập bàn thờ cúng cho bộ áo, do chết dưới
nước thì cúng con cá giỏi, còn đĩa khoai củ là cúng các đảng cô hồn trên
Phá Tam Giang”.
Lễ cầu ngư diễn ra giản dị, đơn sơ,
nhanh gọn, sau những lời cầu khẩn lên thần linh, sơn thần trên bàn thờ
được đem hoá vàng, thuỷ thần được rước ra Phá Tam Giang trả về với đầm
phá. Sau đó cả làng hội tụ nơi đình làng chia nhau những vật cúng ở bàn
thờ chính, cùng nhau ăn bữa cỗ thân mật trước khi tiếp tục đời sống quen
thuộc với ghe chài của mình để tìm về những sản vật đầm phá cho công
cuộc mưu sinh thường ngày.
Bên cạnh hệ thống nò sáo đã trở thành
một đặc sản của vùng đầm phá, lễ cầu ngư của cư dân Phá Tam Giang cũng
là một nét văn hóa thú vị, góp cho vẻ đẹp vùng đầm phá thêm phong phú và
quyến rũ hơn. Ngày nay, Phá Tam Giang không chỉ là nơi cư trú riêng của
cư dân đầm phá, mà còn là một địa danh du lịch trải nghiệm hấp dẫn với
lữ khách phương xa.
Theo : motthegioi.vn