Nằm cạnh quốc lộ 4C, giữa thung lũng Sà Phìn, địa điểm mà cụ Vương
Chính Đức, vị vua Mèo hùng bá một thời cất công sang tận Trung Quốc mời
thầy phòng thủy về xem hết thế đất của 4 huyện Yên Minh, Quản Bạ, Đồng
Văn, Mèo Vạc để chọn nơi dựng nhà. Dinh thự họ Vương (nhà Vương) đã trải
qua ngót trăm năm nhưng với sự công phu trong xây dựng, nó vẫn còn tồn
tại và là điểm đến hấp dẫn khách du lịch cho đến tận ngày nay. Trong
từng cái cột nhà, từng bức tường trình đất, từng viên ngói… là từng câu
chuyện thổn thức của chính người H’mông mà không mấy du khách qua đây
từng hiểu?
Cổng chính khu dinh thự
Nằm trên thế đất mai rùa với bốn mặt là núi cao, rất thuận lợi trong
việc phòng thủ, công trình cũng được xây dựng theo lối kiến trúc phòng
thủ đặc trưng của người H’mông. Tuy nhiên, dưới bàn tay của những người
thợ Trung Hoa và sau này việc Pháp đặt chân lên đến đây, công trình đã
có sự hòa trộn giữa kiến trúc truyền thống H’Mông, quy cách nhà người
Hán đậm nét và một chút đường nét của người Pháp.
Cổng vào dinh
Sân trong
“con quạ không có chỗ đậu
Người Mông không có quê hương”
Câu ca dao H’mông đượm buồn trên đã ám ảnh trong lòng biết bao thế hệ
người Mông từ xưa. Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại, nó đã dần
nhòa đi, nhưng những người H’mông ở đây vẫn luôn nhớ về lịch sử của
mình, lịch sử bị người Hán xua đuổi và phải lùi dần xuống phía Nam cho
đến khi định cư được trên những sườn núi đá tai Mèo ở Hà Giang. Bởi vậy
mà trong mỗi người H’Mông luôn có một thứ mà như nhà nghiên cứu H’Mông
Nguyễn Mạnh Tiến gọi là “ám ảnh Hán”. Sự ám ảnh ấy không phải toàn điều
xấu, trong cái nỗi ám ảnh bị xua đuổi, ám ảnh của nỗi sợ còn là những
suy nghĩ mong được như người Hán. Cũng giống như khởi nguyên của loài
người, khi quá sợ, con người chuyển sang thờ và cầu mong ở thần sấm,
thần sông… Và dinh thự họ Vương không nằm ngoài sự ám ảnh ấy, do chính
những người thợ Trung Hoa làm và lỗi kiến trúc cũng mang đậm đặc ảnh
hưởng của người Hán. Nhà bao gồm tiền, trung và hậu dinh với khoảng sân
trong đặc trưng kiến trúc truyền thống Trung Hoa.
Bao quanh toan bộ dinh là bức tường dày đến 80cm và cao gần 3m với
một lối vào từ phía cổng chính, hai bên lối vào là 2 hàng sa mộc cao
lớn, uy nghi như 2 hàng lính canh giữ ngày đêm.
Với 9 năm ròng rã xây dựng, toàn bộ tòa dinh khi mới hoàn thành được
làm bằng gỗ thông đá, pơ mu, đá xanh và một ít sắt thép, tuy nhiên sau
khi nhà nước quản lý và tu bổ, do những loại gỗ trên thuộc dạng quý hiếm
và khó tìm thay thế, một số các hạng mục đã được thay đổi bằng loại gỗ
khác với nguyên bản.
Những năm phong kiến, 4 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc
vẫn được coi như một phiên bang xa xôi mà triều đình gần như chỉ cai
quản trên danh nghĩa và nhận cống thuế hằng năm, còn mọi quyết định và
quyền lực của vua Mèo trong vùng vẫn gần như là tuyệt đối. Với quyền lực
về cả tài chính và chính trị trên vùng đất này, dinh họ Vương quả thực
đã thể hiện được cái uy thế và quyền lực của mình, trước hết là chi phí
cho xây dựng mà nếu quy đổi ra tỷ giá hiện tại có thể lên đến cả hàng
trăm tỉ đồng. Mỗi chiếc chân cột có thể nhìn khá đơn sơ nhưng không mấy
ai biết rằng nó được đặt từ tận Trung Hoa và khi đưa về đây để kê cột
nhà thì mỗi tảng đá ấy đều được cọ bạc để đánh bóng, và để hoàn thành
việc đánh bóng ánh bạc thì mỗi chân cột mất đến 900 đồng bạc Đông Dương,
tương đương với cả tỷ đồng nếu quy đổi tỷ giá hiện tại.
Chòi canh
Mái dinh
Ngói âm dương được sử dụng ở đây
Mái ngói được sử dụng ở đây là mái ngói âm dương được nung bằng đất,
qua cả thế kỷ nắng mưa, nhưng viên ngói hầu hết đã ngả màu thời gian và
có chút u tịch như chính sự thăng trầm của lịch sử dòng họ quyền quý
này.
Cũng với những mô típ có ảnh hưởng đậm đặc từ kiến trúc người Hán
điển hình vẫn điểm lên những màu sắc truyền thống của người H’Mông như
các vách tường trong nhà vẫn được trình tường đất và quét vôi trắng, các
bậc đá trong nhà đều do chính tay những người thợ H’Mông đẽo ra và vận
chuyển từ cách đấy gần chục cây số để đưa về đây xây dựng. Loại gỗ được
dùng chủ yếu vẫn là thông đá, loại cây chỉ mọc trên núi đá cao mà theo
lời người dân ở đây thì cả ngàn năm mới đủ để làm cái cột nhà. Đây là
loại gỗ gần như mặc định chỉ được dùng cho những nhà quyền quý và ngày
nay thì gần như đã không còn để khai thác.
Khi người Pháp bắt đầu đặt chân đến đây, sự giao thoa cũng đã diễn ra
bên trong các chi tiết kiến trúc trong dinh mà biểu hiện rõ nhất chính
là hai hàng lan can bằng thép phía trên hiên của hậu đường, nơi vua Mèo
dùng để tiếp khách và họp bàn các chuyện quan trọng.
Sự giao thoa giữa 3 luồng văn hóa, bậc đá của người H’Mông, chạm gỗ của người Trung Hoa và lan can sắt của người Pháp
Trải qua bao nắng mưa, bao thăng trầm và biến cố lịch sử, nhà Vương
vẫn vững vàng trên đồi mai rùa trong thung lũng Sả Phìn như cách đây
ngót trăm năm khi nó mới được xây dựng. Chỉ khác đi chút ít khi nó mang
thêm vẻ u tịch khi vắng bóng người nhà, những hậu duệ của Vua Mèo giờ đã
định cư ở nhiều nơi khác nhau, có nhánh ở Hà Nội, Sài Gòn, lại có nhánh
ở tận nước Mỹ, Canada xa xôi. Nhưng bên ngoài dinh vẫn còn một nhánh
hậu duệ mà chính trong nhánh ấy có một người cháu gái 4 đời của Vua Mèo,
giờ đã trở thành hướng dẫn viên cho chính ngôi nhà mà cô lớn lên.
Sân trong mang nét u tịch
Sự huy hoàng vang bóng một thời đã xa, những quyền lực đã dần chìm
vào dĩ vãng, nhưng sự uy nghi trên tứng bức tường, từng cây cột, từng
phiến đá… thì vẫn sẽ còn đó, vững chãi như chính những mỏm đá tai mèo
sắc nhọn trên vùng cao nguyên đá, chỉ khác nó mang trong mình một chút
đượm buồn như tiếc nuối một thời uy quyền giờ đã khuất bóng, đượm buồn
như chính trong những câu ca dao của người H’Mông:
Loài cá sống dưới nước
Loài chim bay trên trời
Người Mèo sống ở núi
Theo: songmoi.vn