Ở xã Lũng Cao (thuộc vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Luông, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa) hiện còn 6 chiếc “thượng gia hạ
kiều”.
“Thượng gia hạ kiều” (trên nhà, dưới cầu) hay còn gọi là “Đình kiều”
(trên cầu có đình) là kiến trúc cổ của những chiếc cầu gỗ có mái che
phía trên, bắc ngang sông suối. Ở Việt Nam, số lượng cầu được dựng theo
kiến trúc này hiện không còn nhiều. Và, hầu hết những cây cầu sót lại
đều đã được công nhận là các di tích văn hóa, như Chùa Cầu (Hội An), cầu
Thanh Toàn (Huế), cầu Nhật, Nguyệt (chùa Thầy, Hà Nội), chùa Ngói (Nam
Định)…
Trong rất nhiều cây cầu với kiến trúc đặc biệt này nằm rải rác khắp
các tỉnh thành, xã Lũng Cao (thuộc vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên
Pù Luông, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa) cũng đóng góp 6 chiếc “thượng
gia hạ kiều”. Mỗi bản ở địa phương này có ít nhất một chiếc, riêng bản
Trình có 2 chiếc. Các cây cầu này đều có tuổi thọ lâu đời, thậm chí,
người già trong bản cũng không nhớ nổi ai là người đầu tiên dựng nên
chúng.
Đặc biệt, cả 6 cây cầu này đều bắc ngang dòng suối Nủa chảy qua xã.
Có chiều dài khoảng 25km, suối Nủa là con suối dài nhất huyện Bá Thước,
bắt nguồn từ mỏ nước bản Nủa, chảy qua các bản Hin, Bố, Trình, Cao của
xã Lũng Cao rồi chảy sang các xã Cổ Lũng, Ban Công rồi đổ vào bờ Bắc
sông Mã. Suối Nủa được ví như xương sống của cả vùng, giữa các bản và
nương ruộng, vì vậy, việc qua lại bằng cầu vẫn rất quan trọng.
Khác với những nơi khác, “thượng gia hạ kiều” thường được xem là các
chứng tích lịch sử, ít sử dụng, thì tại Pù Luông, những cây cầu này đều
phục vụ thiết thực cuộc sống của người dân hàng ngày. Xe cộ, công cụ lao
động, nông thổ sản… đều theo người dân qua lại đôi bờ, về bản, ra ruộng
trên những “thượng gia hạ kiều”. Hàng ngày, việc trú mưa, tránh nắng
của người dân làm ruộng vẫn thường diễn ra dưới mái che của cầu. Buổi
tối trăng thanh gió mát mới có các đôi nam nữ đến cầu tình tự.
Mái che của cầu, theo kinh nghiệm từ xưa của bà con, chủ yếu nhằm bảo
vệ các trụ gỗ và mái sàn tránh bị mưa gió làm hư hỏng, mối mọt. Vậy
nên, mái che luôn được bà con chú ý tu sửa sau mỗi mùa mưa bão. Các đợt
“trùng tu” này đều do dân bản tự nguyện đóng góp hoặc theo phân công của
trưởng bản. Một số hộ góp chung một cây gỗ, một số khác góp dăm tấm
gianh, người góp công dựng sửa, người góp cơm rượu… Ai cũng vui vẻ với
công việc này, dù điều kiện kinh kế của bà con còn khá nhiều khó khăn.
Cây cầu dài nhất tại Pù Luông có lẽ là cầu của bản Cao, chừng 25m,
rộng khoảng 2m, với 3 nhịp cầu và 6 trụ gỗ lớn. Cầu được lát những tấm
ván gỗ dưới sàn, không có lan can, nhưng mái gianh che chắn phía trên
rất dày. Theo người dân địa phương, mỗi lần sửa cầu phải tốn chừng 600
tấm gianh để lợp mái, cứ 3-4 năm thì sửa một lần. Các cầu bắc qua bản
Trình tuy bé hơn chút ít, nhưng có công dụng nhiều hơn hẳn do lượng
người xe qua lại mỗi ngày rất đông.
Lũng Cao hiện nay thuộc đất của Mường Khoòng xưa - một trong 4 mường
cổ và lớn nhất xứ Thanh. Vào thời Lê Trung hưng, Mường Khoòng là mường
quan trọng của người Thái cả nước, có vai trò bậc nhất trong công cuộc
phù Lê diệt Mạc, nên rất được triều đình ưu ái. Theo nhiều nhà nghiên
cứu dân tộc học địa phương, những “thượng gia hạ kiều” ở Lũng Cao có thể
đã được dựng từ thời gian đó.
Đến nay, tiếp nối, gìn giữ nét đẹp xưa, các cây vẫn giữ nguyên dáng dấp và vai trò cũ, như hàng trăm năm trước.
Theo: vtv.vn