Từ chiến trường trở về quê nhà khi chỉ còn một chân, ông không ngờ rằng
mình lại lao vào một cuộc chiến nữa. Trải qua biết bao gian khổ, nhiều lúc
tưởng chừng không đủ sức đi tiếp nhưng rồi sức mạnh của ý chí và tinh thần quả
cảm của ông đã giúp cho cuộc khôi phục nghề nón thúng quai thao cổ truyền thắng
lợi.
Về làng Chuông, người ta nói đến nghệ nhân Phạm Trần Canh với một niềm
khâm phục xen lẫn tự hào. Âu có lẽ bởi tình yêu và đôi bàn tay tài hoa khéo léo
của nghệ nhân già ấy đã góp phần làm sống lại nét đẹp cho những chiếc nón cổ
làng Chuông thủa nào.
Rơi nước mắt vì làng nón
Chúng
tôi cho xe chạy dọc con đê xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội để được
ngắm nhìn những nõn lá cọ được phơi nắng trắng triền đê. Làn nắng vàng rọi
xuống từng bó lá, một mùi hương dìu dịu lan tỏa khắp không trung, đẩy lùi đi ký
ức của một thời nón đau thương.
Người
làng Chuông không biết ai là ông tổ của nghề nón, chỉ nghe tổ tiên kể lại chiếc
nón ra đời và gắn bó với mảnh đất Chuông giàu văn hóa tự thủa nào. Những chiếc
nón trắng đặc trưng của làng từ thời phong kiến đã từng được dùng cung tiến
hoàng hậu, công chúa trong cung cấm.
Nghệ
nhân Phạm Trần Canh kể lại rằng, cách đây chừng ba thế kỷ, làng Chuông vẫn làm
nón, nhưng là nón cổ. Nón cổ dày, cũng làm bằng lá, nhưng nan và vành rộng, chủ
yếu dùng để che nắng cho các bà, các chị khi đi làm công việc đồng áng. Không
chỉ có che nắng, mà còn có bộ đôi là nón và tơi để che mưa.
Hơn
thế nữa, Nón Chuông đẹp dáng lại bền, được dùng là kỷ vật tạo ra vẻ dịu dàng
của bao cô gái bước lên xe hoa về làm dâu nhà chồng. Cả xứ Bắc Kỳ không mấy nơi
là không biết tới nón làng Chuông.
Trong
sâu thẳm ký ức của người nghệ nhân già vẫn còn nhớ đến những năm tháng chiến
tranh kéo dài làm xóa nhòa trong trí nhớ mọi người về cách làm nón quai thao
tinh xảo một thời. Người dân làng Chuông lúc đó, phần thì li tán, phần chết vì
bom đạn, đói kém, số còn lại cũng chỉ duy trì cách làm nón thông thường.
Ông
Canh thủa ấy mới 16 tuổi đã phải nén đau thương cho những chiếc nón cổ đang dần
tan biến cùng lửa đạn chiến trường để vác ba lô tham gia vào Vệ quốc đoàn làm
liên lạc cho trung đội 27, tiểu đoàn Đống Đa.
Khi
hòa bình lập lại thì những nghệ nhân già nhất trong làng cũng mất đi, không kịp
truyền lại nghề cho con cháu. Từ đó, chẳng ai còn biết cách làm nón cổ truyền
ra sao nữa.

Miệt mài với đường kim mũi chỉ. Ảnh Tự Lập
Một chân đi tìm nón cổ
Năm
1954, với thương tật 2/4, cụ Canh trở về nơi đã sinh ra mình cùng người vợ quê
gốc Nghệ An. Về làng thấy chẳng còn ai biết làm nón cổ, ông xót xa khi chứng
kiến cái nét đẹp của quê hương đang dần mai một, vậy là ý chí không ngại gian
khổ của "anh bộ đội Cụ Hồ" đã thôi thúc cụ khôi phục tinh hoa làng
nghề.
Những
dòng ký ức của tuổi ấu thơ tràn về, cái thời lên 9, lên 10, ông đã được
người mẹ của mình cho xem làm các mẫu nón cổ truyền sao mà đẹp đến thế.
Rồi có ngày, một số đoàn văn công, đoàn quan họ đã tìm về làng để đặt làm những
chiếc nón cổ, nón thúng quai thao làm phục trang biểu diễn càng làm cho ông
quyết tâm khôi phục lại nghề khâu nón cổ truyền.
Từ
đó, ông bắt đầu cuộc hành trình làm "sống lại" chiếc nón cổ quê mình.
Chỉ còn một chân vậy mà ông đã gắng rong ruổi khắp chốn, đến các vùng Bắc Ninh,
Hưng Yên, Thái Bình... tìm mua những chiếc nón thúng quai thao, nón dân tộc
Thái cũ.
Vất
vả lắm, vì cầu phà nhiều, mỗi khi xuống bến phà khổ lắm. Đi cái chân gỗ lại
phải dắt cái xe xuống bến phà khó và khổ vô cùng. Nhưng ngày nào chưa tìm ra,
là ngày đó còn ăn không ngon, ngủ không yên.
Cả
tháng lăn lộn khắp các tỉnh để dò hỏi, nghe ngóng hễ ở đâu có nón là ông Canh
lại mày mò đến hỏi mua cho bằng được. Có những đợt thời tiết thay đổi, vết
thương tái phát, phần còn lại của chân phải bị thương nhức buốt ông đã nghĩ đến
chuyện ra về tay trắng. Nhưng ông lại nhìn cái chân và nghĩ: "chẳng nhẽ
mình đã tàn lại còn bị phế ư?". Rồi bàn chân ông lại tiếp tục bước trên
những nẻo đường xa quê.
Tìm
khắp chốn, rồi rui rủi thế nào ông lại về Hà Nội, vào một ngôi chùa ông đã tìm
thấy chiếc nón cổ. Sau đó, ông ra chợ Đồng Xuân và nhờ một người phụ nữ mua hộ.
Sư chùa biết được tấm lòng của ông nên đã không lấy tiền. Nhưng ông vẫn dấu bà
nhà trả 30 ngàn cho người mua hộ nón.
Ông
vui sướng mang về tháo rời ra để nghiên cứu kích cỡ, kiểu dáng, cách khâu rồi
ghi chép lại một cách tỉ mỉ. Bằng trí nhớ của mình, ông hình dung lại cách làm
nón mà ngày xưa bà nội từng làm.

Ngoài những chiếc nón truyền thống, ông Canh còn khôi
phục cả những chiếc nón của người Hoa.
Ảnh Tự Lập
Mang tinh hoa trở lại
Những
ngày đầu, chưa quen, kim đâm loạn xạ, khắp người chỗ nào cũng có vết trầy xước
của tre nứa và kim đâm. Thấy ông đánh vật với những đường kim mũi chỉ, không
ăn, không ngủ; lo lắng cho sức khoẻ của bố, các con ông đều khuyên ngăn, nhưng
ông một mực không chịu. Ông tự nhủ: "Đời lính Cụ Hồ, đánh giặc khó vậy còn
làm được, thì có gì không làm được...
Sau
một thời gian kiên trì, mày mò, ông cũng hoàn thành được chiếc nón quai thao -
nón ba tầm. Cuối cùng cái nghề nón cổ xưa của ông cha đã trở lại. Ông mừng lắm,
rồi ông bật khóc như một đứa trẻ.
Có
lẽ ai cũng nhận ra rằng, những chiếc nón cổ dường như bị "bỏ rơi" do
ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, làm nón cổ, đòi hỏi nhiều
công đoạn công phu tỉ mỉ mà lợi nhuận lại không cao, cho nên nó dần chìm vào
quên lãng là điều rất dễ dàng.
Làm
nón cổ công phu và phức tạp từ khâu làm lá, lắp lá vào rồi khâu nón, cạp nón
cho đến trang trí... Tất cả đòi hỏi người thợ phải thật kiên trì, khéo léo để
chiếc nón tròn, khít, mịn từ mép lá đến đường kim mũi chỉ.
Làm
ra được một chiếc nón quai thao phải mất 3 ngày, đòi hỏi người thợ bỏ ra nhiều
công sức và thời gian gấp mấy lần những chiếc nón bình thường. Một chiếc nón
quai thao muốn hoàn thành phải trải qua 6 công đoạn, mỗi công đoạn có những cái
khó khác nhau.
Những
chiếc lá cọ chở từ Phú Thọ về sẽ được đem đi phơi nắng chừng 3 ngày. Khi lá cọ
đã chuyển từ xanh sang trắng và khô lại, chúng sẽ được cắt ra, độ dài tuỳ thuộc
vào đường kính vành nón định làm. Trong công đoạn đầu tiên này và cũng khó nhất
là việc là lá bằng lưỡi cày nung nóng, làm cho lá thẳng ra.
Một
chiếc nón quai thao cổ thường ghép bằng 4 lọn lá, phía bên trong mặt nón được
ghép bằng những mảnh vải đỏ hoặc vàng trải phẳng, chỗ buộc quai nón được đan
bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc...
Với
sự cần mẫn và lòng yêu nghề, cuối cùng, ông đã hoàn thành những chiếc nón quai
thao, nón ba tầm đầu tiên. Những chiếc nón cổ được hồi sinh trở thành phục
trang quen thuộc của các đoàn nghệ thuật và là một vật dụng trang trí nghệ
thuật trong các ngôi nhà.
Nhưng
ông lại sợ một ngày nào đó khi ông ngã xuống, chiếc nón quai thao ấy lại thất
truyền một lần nữa. Vì thế, ông đã mở lớp dạy làm nón miễn phí cho người dân
quanh vùng. Không phân biệt nam nữ, già trẻ, chỉ cần có một tấm lòng yêu nghề,
muốn giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống là ông dạy liền. Tính đến nay
cũng đã có gần 100 người theo học.
Giờ
đây, ở cái tuổi "cổ lai hy", sức khỏe hạn chế đi nhiều nhưng nghệ
nhân Phạm Trần Canh vẫn không ngừng sáng tạo. Ngày ngày, ông vẫn cần mẫn với
công việc làm nón. Ông còn phục chế lại nhiều mẫu nón cổ khác như nón dân tộc
Thái, nón chóp dứa, nón lá già ghép sóng, nón Hồng Kông...
Với
nghệ nhân Phạm Trần Canh duy trì nghề làm nón cổ không chỉ góp phần vào việc
gìn giữ, bảo tồn những nét văn hóa độc đáo của Việt Nam. Mà ông còn giúp cho giới trẻ
nhận ra rằng để tinh hoa làng nghề mai một là có tội với ông cha.
Nguồn: Tuanvietnam.net