Ở cái làng Phạm Pháo, xã Hải Minh, Hải Hậu thật lắm cái lạ. Đất làng
nhìn từ trên cao giống hệt hình cỗ pháo khổng lồ, lại do dòng họ Phạm là
những người đầu tiên đến khai sinh lập địa ở xứ biển này, thế là dân
quanh vùng gọi tên đích danh làng Phạm Pháo. Nghệ nhân Nguyễn Duy Đông ở
giữa làng và là một trong những người thợ làm kèn đầu tiên cho xứ đạo
quanh vùng.
Nghe
tiếng kèn khắp xóm ngõ trong xã Hải Minh mà thấy bối rối vì không biết
đi ngả nào đến nhà nghệ nhân Nguyễn Duy Đông. Đến đâu cũng gặp nhà thờ
và đều có ban nhạc kèn trống tấu lên những bản hành khúc. Nào là “Lên
đàng”, “Làng tôi” hay “Việt Nam quê hương tôi”, “Biển hát chiều nay”...
Đội kèn nam và nữ ở Hải Minh.
Người thợ kèn kể chuyện
Tôi đang khấp khểnh trên đường làng thì nghệ nhân Nguyễn Duy Đông
xuất hiện với nụ cười hồ hởi. Hóa ra ông cũng đi đón tôi. Nhưng ông lại
cho biết người khai sinh ra nghề làm kèn ở đây phải kể đến cụ Biên ở xóm
trên.
Câu chuyện kể đã trăm năm. Ấy là từ hồi 1908, làng Phạm Pháo có đội
kèn tây đầu tiên, có nhiệm vụ tấu nhạc mỗi khi làm lễ hoặc những việc
trọng đại diễn ra tại nhà thờ. Ngày ấy đội kèn chỉ có độ 8 chiếc kèn các
loại. Mỗi khi hỏng hóc phải vác kèn ra thành phố Nam Định sửa, nếu bệnh nặng hơn nữa phải mất mấy ngày lên Hà Nội thay thế hoặc gia công chữa lại. Thế là đội kèn chịu chết đành chờ đợi.
Ông Đông nheo mắt nhớ lại, có lần lịch trình diễn của đội kèn sắp
đến, họ phát hiện một chiếc kèn bị thủng miếng khá to vì nhiễm nước mặn
gỉ ngoèn. Đội kèn buồn thiu vì nếu mang đi chữa lại mất cả tuần lễ. Lúc
ấy anh cả Biên của đội nhạc quyết định về nhà lấy chiếc mâm đồng cắt
béng một miếng tự vá lại bằng chiếc mỏ hàn tự chế.
Chiếc mâm đồng ngày ấy được coi là một tài sản chứ đâu có ít. Nhưng
chiếc kèn đồng lại vang lên lảnh lót khắp làng. Đó là niềm vui lớn vì
chính người làng mình có thể sửa được kèn tây. Chẳng phải mang đi đâu
cả. Từ đó một xưởng sửa chữa kèn được hình thành ở Phạm Pháo. Nhiều đội
kèn ở các nhà thờ quanh vùng Hải Hậu đều tìm đến mỗi khi có kèn bị hỏng.
Ông Đông hất mái tóc bồng bềnh rất nghệ sĩ về phía sau rồi kể tiếp,
chính ông cũng là một thợ học việc của cụ Biên cùng các con cháu và giờ
đây mở cả xưởng làm kèn cho khắp nơi. Nhiều người ra vào cửa hàng ông
tấp nập. Những chiếc kèn được chuyển lên gác sửa chữa và làm mới, phục
vụ cho hơn chục đội kèn trong làng chuẩn bị tập, chào mừng ngày lễ Quốc
khánh.
Bận tiếp tôi, nhưng ông Đông vẫn nhanh nhẹn kiểm tra kèn, thổi thử
rồi phán bệnh để cho con cháu làm. Hỏi ra mới biết thợ làm kèn toàn con
cháu ông cả. Vợ ông cũng là một người thẩm định âm sắc kèn rất diệu
nghệ. Ông có tới mười người con đều mê cái nghề làm kèn tây. Tôi thật
bất ngờ có một chàng trai gặp riêng ghé tai ông nói gì đó. Ông gật đầu
cười, xin lỗi tôi bước vào phía sau nhà, cùng chàng trai trẻ tuổi có mái
tóc bồng bềnh hệt ông.
Nghệ nhân Nguyễn Duy Đông trong phân xưởng chế tác kèn.
Tiếng gò đồng và tiếng vỗ loa đây đó râm ran trên đầu tôi. Vì ông
Đông dành cả tầng hai làm xưởng chế tác kèn. Tôi mê mải ngắm những chiếc
kèn trong tủ kính. Bất ngờ tiếng kèn trumpet vang lên da diết, ngọt
ngào. Đó là giai điệu ca khúc “Một cõi đi về” của cố nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn. Nghe như tiếng saxsophone của nghệ sĩ Trần Văn Tuấn đâu đó vọng về
xứ biển này.
Tôi đã từng nghe anh biểu diễn, với dòng tự sự đầy triết lý của mình,
trên sân khấu Hà Nội. Giai điệu thật mê ly: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi
ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật
nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về...”.
Bước chân tôi như mộng du đi theo tiếng nhạc ở phía trong. Thật không
ngờ trước mắt tôi chính là nghệ nhân Nguyễn Duy Đông đang biểu diễn.
Mái tóc dài xòa phủ kín gương mặt khắc khổ của người già. Tôi khoanh
tay, lặng lẽ tựa vào cột nhà lắng nghe lời tự sự ngân vang của một người
thợ, đích thị là nghệ sĩ miệt biển này. Giọng kèn như mơ vậy.
Những người thợ làm kèn có tiếng như ông Đông ở cái xứ này kể ra
không phải ít. Trước hết đó là gia đình cụ Biên ba đời làm kèn. Ông Đông
còn kể ra những cái tên thợ kèn nổi tiếng của làng như Nguyễn Văn Cường
Nguyễn Văn Oánh. Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Hiện...
Cả xã hiện có tới 5 xưởng sửa chữa và làm kèn lớn. Ngoài ra gia đình
nào cũng đều có thợ sẵn sàng xử lý những tình huống hỏng hóc nhẹ của
hàng trăm chiếc kèn. Bởi làng có tới 800 cây kèn mà các nghệ sĩ biểu
diễn đều là những nông dân chân lấm tay bùn. Cứ tối đến là các đội kèn
của Hải Minh lại rộn rã tập luyện như vào hội vậy.
Nghe kèn cá nhảy
Nói ngỡ như đùa, nhưng ông Đông thật tình bộc bạch, chả đâu như các
làng ở xứ đạo này. Suốt ngày lam lũ bên ruộng bên vườn, hoặc bươn bả
ngoài đời, chợ búa chạy xe, vậy mà cứ tối đến cả làng cứ ỏm tỏi cả lên.
Đâu đâu cũng vang lên tiếng kèn. Nhất là bọn trẻ. Ngoài những bản nhạc
thánh lễ, nghiêm cẩn nồng ấm, thì chúng còn tập nhiều bài ca cách mạng.
Tính ra đội kèn nào trong xã cũng biểu diễn được những ca khúc quen
thuộc như: “Chào bình minh thế kỷ”; “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại
thắng”; “Mười chín tháng Tám”; “Xuân chiến khu”; “Làng tôi”; “Sơn nữ
ca”... cả thảy tới 40 bài chứ không ít. Bài nào cũng vững vàng, nhịp
phách đâu ra đó.
Nhiều gia đình đều cho con đi học kèn từ nhỏ và còn bỏ ra cả đống
tiền mua kèn cho con. Hơn nữa những người làng làm ra kèn đẹp, âm sắc
chuẩn mực không kém kèn nhập ngoại, giá lại rẻ hơn hẳn, nên cũng được ưa
chuộng. Chính vì thế đội kèn ngày một phát triển. Nhiều cô cậu thi vào
được nhạc viện đi học trên thành phố hay Hà Nội. Số đông còn lại đều tập
luyện đi biểu diễn khắp nơi.
Cả xã Hải Minh có tới 12 đội kèn. Xóm nọ thi đua với xóm kia, mỗi đội
có ít nhất cũng không dưới con số 50 cây kèn các loại. Khó nhất là kèn
Công, to và nặng tới hơn 13 kg, giá tới hàng chục triệu đồng, vậy mà
không đội nào không có. Vào ngày lễ hội, xã tập hợp toàn bộ tới 800 tay
kèn.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Cường.
Nhìn toàn đoàn kèn xếp hàng ngỡ như nằm mơ vậy. Toàn những cây kèn
vàng rực dưới ánh mặt trời đều tăm tắp. Đúng là có lần, khi người chỉ
huy vung đũa lên, ngay từ nốt nhạc đầu tiên vang ầm như tiếng sấm làm
đàn cá dưới ao hợp tác cùng nhảy lên bờ giãy đành đạch vì quá sợ hãi.
Tôi phì cười vì câu chuyện ngỡ như huyền thoại vậy. Ông Đông cười
khoái trá. Mái tóc nghệ sĩ bay phất phơ trước cơn gió lùa qua cửa sổ.
Nhìn ông như bay lên trong bản nhạc “Một cõi đi về”, mà cậu học trò ngồi
tít trên sân thượng say sưa tập luyện, từng câu một chan chứa nỗi
niềm.
Tôi sang tham quan xưởng làm kèn của gia đình ông Cường, con cả cụ
Biên nổi tiếng ngày nào. Xưởng kèn của ông Cường lớn hơn tôi tưởng, vì
nằm phía sau một cửa hàng gỗ của con trai ông, nhưng lại ngổn ngang,
chất đầy hàng trăm chiếc kèn đang nằm chờ ra lò.
Nghe nói ông Cường là nghệ sĩ đích thực của đội kèn quân đội vào đầu
thập niên 70. Mấy năm tập luyện dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ, NSND Đinh
Ngọc Liên, tiếng kèn của nghệ sĩ Cường mỗi ngày một hay. Anh theo đoàn
đi biểu diễn tại hàng trăm đơn vị quân đội và các mặt trận tiền phương.
Vậy là từ một cây kèn nghiệp dư ở làng quê, chiến sĩ Nguyễn Văn Cường
trở thành nghệ sĩ kèn thực sự tài năng, được biểu diễn ở những chương
trình lễ lớn trên toàn quốc.
Chính vì thế, sau này nối nghiệp cha làm nghề sửa kèn, ông Cường có
biệt tài chỉ nghe qua tiếng kèn là biết hỏng ở bộ phận nào, và nghĩ ra
ngay cách chỉnh sửa cho tiếng kèn đúng âm sắc, kêu vang chuẩn mực. Ông
Cường tâm sự, đúng là sau xuất ngũ, ông không thể chọn được nghề khác,
vì tình yêu với những chiếc kèn mà cha ông truyền lại.
Tính đến nay, ông Cường ở tuổi ngoài 60 nhưng đã làm nghề sửa kèn tới
hơn 40 năm. Ông bộc bạch, thực ra nối nghiệp gia đình để lại chỉ vì
niềm say mê tiếng kèn và âm sắc huyền thoại của nó, chứ chỉ nếu tính
kinh tế thì khó trụ nổi. Vậy mà ông cũng không ngờ được, con trai ông là
Nguyễn Trung Kiên còn say mê hơn ông tưởng. Nó học nghề từ lúc nào
không hay nữa.
Đi học nhạc và lại quay về làm kèn như bố. Đúng là “hổ phụ sinh hổ
tử”. Ông Cường được niềm an ủi lớn và luôn được chia sẻ, mỗi khi cùng
con hoàn thành một chiếc kèn theo đơn đặt hàng, hay cùng chơi một bản
nhạc. Nó như một sự trả lời đầy ý nhị về chất lượng của chiếc kèn cho
khách hàng.
Đúng lúc đó có người đến lấy chiếc kèn đặt ông làm lại bộ hơi. Đây là
một chi tiết quan trọng nhất của mỗi chiếc kèn. Đó chính là bộ điều
khiển nốt nhạc tạo nên âm sắc của kèn. Làm bộ hơi không dễ nếu không là
người có trình độ thẩm âm tinh tế.
Điều may mắn, nghệ nhân Cường là người chơi kèn chuyên nghiệp, nên
tai nghe rất chuẩn. Chế tác bộ hơi, bao giờ ông Cường cũng được coi là
bậc thầy về độ thẩm âm. Dân làng vẫn gọi ông là “Vua kèn đồng” bởi lẽ
đó. Người nhận hàng thổi kèn, kiểm tra bộ hơi một lúc bằng bài “Làng
tôi” của Văn Cao rồi gật đầu lia lịa, vì tiếng trong trẻo và ngọt ngào
của âm sắc vang lên.
Nhìn nụ cười rạng rỡ của ông Cường, tôi nhận ra niềm vui tràn lên đôi
mắt ông, chứ không phải đồng tiền nhận được. Bởi đúng như ông nói, giá
tiền chỉ vừa hòa vốn tiền mua đồng và công sức làm ra, không hề tính
lãi. Vui là chính. Âm sắc và những giai điệu kèn vang vọng khắp nơi, đem
lại sự hào hứng cho mọi người, chính là món lãi tinh thần cho người thợ
làm kèn như ông.
Chiếc kèn lớn nhất thế giới
Có một cha xứ người Pháp khi sang đây phải thốt lên, các giáo xứ ở
Nam Định có hai cái nhất thế giới, một là đội kèn đông nhất thế giới và
chiếc kèn trumpet lớn nhất thế giới. Đội kèn Hải Minh gồm 800 người,
đông nhất thế giới thì đúng rồi, bởi chả có xứ nào mê kèn đến như vậy.
Gần đây đi góp phần biểu diễn cho lễ ở thánh đường La Va, Quảng Trị,
đội kèn Hải Minh cùng các đội kèn thuộc giáo xứ Bùi Chu góp lại cũng đến
ngàn người, trong đó riêng Hải Minh có mặt phân nửa. Còn khi tôi hỏi
đến chiếc kèn lớn nhất, hẳn là một kỷ lục ở giáo xứ Bùi Chu này, thì
nghệ nhân Nguyễn Văn Cường gật đầu đồng tình kể vanh vách, đó là một
công trình đáng tự hào của cả vùng.
Chiếc kèn này do tay thợ tài hoa Đinh Văn Mạnh ở Xuân Trường thiết kế
và chỉ huy thi công. Với độ dài 5,5m, nặng tới 300 kg quả là kỳ công.
Chiếc kèn ghi dấu kỷ lục trong nước từ năm 2005. Nguyên chiếc loa kèn
cũng có đường kính 1,25m cùng với bộ hơi lớn hơn 0,6m đã làm nên một câu
chuyển cổ tích thời nay.
Người đề xướng, giám mục Hoàng Văn Tiệm đặt hàng, đã làm khó cho
những người thợ làm kèn. Bởi đối với cách làm thủ công, ở miệt giáo dân
còn lạc hậu về công nghệ, khó có thể làm nổi. Nhưng hai cha con thợ kèn
Đinh Văn Mạnh quyết tâm, đêm ngày nghĩ cho ra phương thức, đúc thân kèn
và các tay ống kèn khổng lồ. Hãy tưởng tượng đây là chiếc kèn trumpet
thông thường được phóng to lên hơn 500 lần.
Quả nhiên, nhiều sáng kiến được cánh thợ kèn khắp nơi trong vùng hội
tụ và chọn lọc đã mở ra lối thoát. Kế sách hoàn chỉnh của nghệ nhân Đinh
Văn Mạnh đã chắp cánh cho ước mơ bay cao.
Sua 4 tháng ròng, chiếc kèn khổng lồ ra đời đã làm giới làm kèn mừng
khôn xiết. Hiện chiếc kèn được bày ở Tòa giám mục Bùi Chu, huyện Xuân
Trường. Vậy là từ đây không có chuyện gì mà không làm được. Nghệ nhân
Nguyễn Văn Cường vừa nói vừa chỉnh bộ hơi của một chiếc trumpet nhỏ.
Sau đó ông giương kèn lên thử âm sắc. Trầm ấm vang xa. Đó là chiếc
kèn brass mơ màng nhất trong các loại kèn. Từng nốt, từng nốt như vẽ lên
trời những áng mây trắng bay ngang qua biển nắng. Và, những đàn chim
bay lượn quanh những con sóng trắng xóa vỗ bờ miên man, cùng tiếng kèn
lảnh lót làm nên bài ca bất tận vượt sóng ra khơi.
Theo: antg.cand.com.vn