|
Một góc làng nghề đá Non Nước. |
Công nghệ lấn át
Như
đã nói ở các bài trước, nhiều làng nghề truyền thống tại
Đà Nẵng có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Trong thời hội
nhập và phát triển, làng nghề được tiếp thêm sức sống mới
với sự đầu tư về cơ sở hạ tầng, công nghệ và mở rộng thị
trường xuất khẩu. Tại các làng nghề đã ra đời các công ty,
sản xuất được mở rộng cùng các chương trình xúc tiến thương
mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường... Tuy nhiên, có một
thực tế là các làng nghề truyền thống hiện đang phải đối mặt
với hàng loạt những khó khăn, thách thức như thiếu vốn, thiếu
mặt bằng sản xuất, chưa có nguyên liệu ổn định, vấn đề ô
nhiễm môi trường... Trong đó, khó khăn, thách thức lớn nhất
hiện nay là khâu tiêu thụ sản phẩm.
Được xem là nổi tiếng
nhất Đà Nẵng với lịch sử hơn 400 năm, tuy nhiên làng đá Non
Nước cũng không tránh khỏi những khó khăn, thách thức. Về mặt
chủ quan, thời đại công nghệ phát triển như vũ bão, không chỉ
riêng ở làng đá Non Nước mà ở nhiều làng nghề truyền thống
khác đã xảy ra tình trạng sản phẩm công nghệ, máy móc đang
lấn át, thay thế hàng loạt các sản phẩm thủ công. Bên cạnh
đó, tình trạng thương mại hóa sản phẩm, chạy đua theo số lượng
mà quên đi chất lượng, sản xuất hàng loạt chứ không chú trọng
cái "độc", cái hiếm. Nói như Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Việt Minh,
Chủ tịch Hội làng đá Non Nước, hàng thủ công muốn tồn tại
và phát triển phải dựa trên thế mạnh của mình, tức là sản
phẩm phải hàm chứa yếu tố văn hóa cao, mang đậm bản sắc. "Đã
đến lúc không thể chỉ chú trọng số lượng mà chất lượng sản
phẩm phải được nâng cao, thể hiện dấu ấn sáng tạo và sự tài
hoa của các nghệ nhân", nghệ nhân Nguyễn Việt Minh nhìn nhận.
Cũng theo ông Nguyễn Việt Minh, các sản phẩm của làng nghề
hiện đang bị tác động khá lớn bởi công nghệ, máy móc hiện
đại và nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng, những vấn đề này
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến bàn tay, óc sáng tạo của người
thợ đá, và đến một lúc nào đó, họ lại phải loay hoay đi tìm
bản sắc và kỹ năng truyền lại tự bao đời... Quả thực, những
băn khoăn, trăn trở của ông không phải không có cơ sở.
|
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Việt Minh, được xem là người mở lối cho làng đá Non Nước. |
Quy hoạch làng nghề
Về
mặt khách quan, chủ trương quy hoạch các cơ sở sản xuất, chế
tác đá ở làng nghề Non Nước mặc dù đã được triển khai từ năm
2014, tuy nhiên do diện tích đất quy hoạch tại khu sản xuất tập
trung của làng nghề chưa đáp ứng đủ nên vẫn còn hơn 100 cơ sở
sản xuất đá mỹ nghệ lẫn trong khu dân cư, gây nên cảnh nhếch
nhác, ô nhiễm. Ngoài ra, tại làng nghề tập trung cũng phát sinh
một số điểm bất hợp lý như diện tích đất để làm nhà xưởng
quá hẹp, không phù hợp với chế tác đá; hệ thống đấu nối
nước thải về hồ xử lý gần như không hoạt động, bởi được
thiết kế cống đúc, nước thải và bột đá trong quá trình chế
tác vẫn tràn lan ra đường, thẩm thấu xuống đất là chính...
Trở
lại làng nghề nước mắm Nam Ô, để sản xuất được một lít nước
mắm, người dân Nam Ô phải tốn rất nhiều công sức, trong khi đó
nguồn nguyên liệu không được dồi dào như xưa, nhất là trong thời
điểm môi trường biển 4 tỉnh bắc miền Trung bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Hiện tại, giá cá cơm để làm nước mắm đã lên tới 22
đến 25 ngàn đồng/kg, kéo theo giá thành sản xuất một lít nước
mắm là đã lên tới 50-60 ngàn đồng/lít, nhưng phải một năm sau
mới cho thu hoạch. Vì vậy, giá bán 1 lít nước mắm ra thị
trường thấp nhất cũng phải 60-70 ngàn đồng. Giá cao nên nước
mắm Nam Ô khó có mặt ở chợ, và cũng khó vào được siêu thị
bởi các quy định ngặt nghèo. Một vấn đề khác, theo ông Trần
Ngọc Vinh, Hội làng nghề nước mắm Nam Ô, hiện có khoảng 100
hộ sản xuất, trong đó phân nửa bà con về nơi ở mới là khu tái
định cư Xuân Thiều 3. Dù họ có đau đáu hoặc duy trì làm nghề
thì cũng khó có thể giữ được cái "hồn cốt" của nước mắm Nam
Ô. Vì một làng nghề mắm mà xa biển, con cá không được tiếp
xúc với nắng, gió biển thì bản chất loại mắm đó sẽ khó giữ
được hương vị như trước. Và một làng nghề cần sản xuất tập
trung thì không thể một nửa ở sát biển, một nửa ở xa biển cả
mấy cây số.
Từ nhiều năm nay HTX sản xuất nước mắm và
chế biến hải sản Đông Hải do ông Trần Ngọc Vinh làm Chủ nhiệm
liên kết làm ăn với công ty tại TP Hồ Chí Minh. Mọi chuyện đang
tốt đẹp, sản lượng làm ra được bao tiêu, thì dự án Du lịch
sinh thái Nam Ô sắp khởi công khiến mọi chuyện không còn diễn
biến tốt như trước. 8/11 xã viên xin rút vốn, ông Vinh cũng không
thể quản lý được chất lượng sản phẩm, dẫn đến tình trạng
mạnh ai nấy làm. Cũng vì chuyện giải tỏa này mà làng nghề
truyền thống Nam Ô đang lâm vào thế bí. Ông Vinh cho rằng, đã
gọi là làng nghề truyền thống thì phải tập trung, phải có sự
quản lý, giám sát chặt chẽ từ quy trình sản xuất, chế biến
đến tiêu thụ. Chứ còn tản mác, mỗi người một nơi, mạnh ai nấy
làm thì nguy cơ chất lượng sản phẩm sẽ không đảm bảo, ảnh
hưởng đến thương hiệu đã dày công tạo dựng bao năm qua. "Xây
dựng làng nghề đã khó mà giữ còn khó hơn. Vì thế bà con
làng nghề đều mong muốn, các cấp, các ngành khi quy hoạch làng
nghề cần chú ý đến yếu tố đặc trưng về địa điểm, đặc thù
về nghề làm nước mắm, mà như đã nói ở trên là con cá cơm than
cần được ngửi mùi gió biển, được tắm nắng biển... Nói tóm
lại, nước mắm Nam Ô cần phải tồn tại trong môi trường vốn dĩ
nó được sinh ra, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay", ông
Vinh mong muốn.
Đầu ra cho sản phẩm
Ngoài
đá Non Nước, nước mắm Nam Ô, tại Đà Nẵng, các sản phẩm như
bánh tráng Túy Loan, chiếu Cẩm Nê, bánh khô mè Quang Châu... từ
lâu trở thành những cái tên quen thuộc. Tuy nhiên thực tế hiện
nay, tại các làng nghề này ngày càng vắng dần hộ dân theo
nghề truyền thống. Tại thôn Quang Châu, số hộ sản xuất bánh khô
mè nức tiếng một thời hiện chỉ đếm trên đầu ngón tay. Theo
ông Trần Văn Trọng, Bí thư Chi bộ thôn Quang Châu, cả thôn có gần
800 hộ nhưng hiện tại chỉ còn 4 hộ sản xuất bánh khô mè
truyền thống quanh năm, còn lại có khoảng vài chục hộ sản
xuất cầm chừng, theo thời vụ hoặc chỉ làm để phục vụ nhu cầu
gia đình. Chỉ đến thời điểm cận Tết thì làng nghề bánh khô
mè Quang Châu mới nhộn nhịp. "Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng
quan trọng nhất vẫn là đầu ra của sản phẩm. 10 năm trước, tại
Quang Châu đã hình thành tổ hợp tác quy tụ hàng chục hộ sản
xuất bánh khô mè truyền thống, tuy nhiên, khi tập trung sản
xuất, sản lượng lớn nhưng đầu ra không có nên chỉ sau đó thời
gian ngắn, tổ hợp tác đành phải giải thể. Nhiều hộ gia đình
không còn mặn mà với nghề và tìm công ăn việc làm mới, ổn
định hơn", ông Trọng tiếc nuối. Cũng theo ông Trọng, điều đáng
lo nhất là những người theo nghề đa phần đã lớn tuổi. Họ vào
nghề từ rất sớm và được ông bà, cha mẹ truyền lại nên gánh
trên vai trách nhiệm duy trì truyền thống của gia đình. Song,
hiện tại con cái họ hầu hết đều không muốn hoặc không tâm
huyết theo nghề, bởi họ cho rằng nghề truyền thống vất vả,
khó nhọc, lại thu nhập không ổn định...
Thiết nghĩ, những
vấn đề trên đây không chỉ là trăn trở của các nghệ nhân làng
nghề, mà còn là thực tế đặt ra cho các cấp, các ngành và
địa phương tại Đà Nẵng trong công tác bảo tồn, phát huy các
giá trị vô giá của nghề truyền thống. Bởi suy cho cùng, muốn
phát triển bền vững thì không nên và không thể tách rời với
cái nền truyền thống đã tạo dựng...