Nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh.
Tài không đợi tuổi
Nguyễn Văn Vĩnh chào đời tại 46 phố Hàng Giấy, Hà Nội ngày 15/6/1882 trong một gia đình lao động nghèo.
Tám tuổi phải đi làm thằng nhỏ kéo quạt
cho trường Thông ngôn của Pháp ở đình Yên Phụ. Ngồi cuối lớp kéo quạt,
nhưng bé Vĩnh vẫn chăm chú nghe giảng, rồi nói và viết được tiếng Pháp.
Thầy Hiệu trưởng Đac-giăng-xơ chú ý và cho phép cùng thi tốt nghiệp sau
ba năm học. Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thứ 12 khi mới 11 tuổi nên được đặc cách
nhận vào học chính thức, được học bổng để theo học khóa tiếp theo
(1893-1895) và đã đỗ thủ khoa khóa học này. Mới 14 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh
đã làm Thông ngôn ở tòa sứ Lào Cai, sau chuyển về Tòa sứ Hải Phòng rồi
Bắc Giang.
Thời gian này, Nguyễn Văn Vĩnh làm cộng
tác viên cho tờ Courrier d’Hải Phong (Thư tín Hải Phòng) và tờ Triburier
Indochinois (Diễn đàn Đông Dương). Công sứ Bắc Giang Hô- zê đánh giá
rất cao tài mẫn tiệp và khả năng nói tiếng Pháp của Vĩnh nên đặc cách bổ
nhiệm làm Chánh văn phòng. Khi Hô- zê được cử về làm đốc lý Hà Nội,
Vĩnh cũng được về theo.
Bắt đầu lập nghiệp
Dưới thời Toàn quyền Bô, ông Nguyễn Văn
Vĩnh trở thành sáng lập viên của Hội Trí tri, và Trường Đông Kinh nghĩa
thục. Ông cũng là người sáng lập Hội Dịch sách, Hội Giúp đỡ người Việt
sang Pháp du học. Năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh cùng Hô-zê sang Pháp lo việc
tổ chức và quản lý gian hàng Bắc Kỳ tại Hội chợ thuộc địa mở ở Mac-
xây. Được tận mắt nhìn thấy nền văn minh phương Tây, Nguyễn Văn Vĩnh đã
nuôi sẵn tinh thần bài bác hủ tục phong kiến để canh tân đất nước theo
con đường tư bản. Nhưng ông đặc biệt quan tâm nghề in và nghề làm báo.
Về nước, ông từ chức ở Phủ Thống sứ để
ra làm báo và làm nghề in. Nguyễn Văn Vĩnh được mời biên soạn và in ấn
tờ Đại Nam đồng văn nhật báo (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung
một văn tự) vốn đã ra đến số 722 nhưng mới chỉ là một tờ công báo. Năm
1907, đổi tên là Đăng cổ tùng báo (Tập báo khêu đèn gióng trống) do
Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ tịch và viết bài bằng ba thứ chữ: Chữ Quốc ngữ,
chữ Pháp và chữ Nôm. Khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, Phan Châu
Trinh bị bắt, ông đã ký tên cùng bốn người Pháp đòi Chính quyền thực dân
thả Phan Châu Trinh. Ông bị Toàn quyền Đông Dương gọi lên đe dọa.
Từ năm 1906 đến 1931, ông sáng lập và làm chủ bút nhiều tờ báo, tạp chí.
Năm 1932, dự họp Hội đồng Kinh tế và tài
chính Đông Dương ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Vĩnh thay mặt giới doanh nghiệp
phản đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản ra kim bản vị vì
có lợi cho ngân hàng Pháp và có hại cho Đông Dương. Đang họp thì có trát
của Tòa án đòi tịch biên gia sản vì ông thiếu nợ, do vay tiền dựng tòa
soạn báo An Nam Nouveau.
Ảnh chụp năm 1919, Ban Biên tập báo Trung
Bắc Tân Văn, tờ Nhật báo đầu tiên của lịch sử báo chí Việt Nam. Các
thành viên BBT chụp nhân dịp ông François-Henri Schneider chuyển nhượng
toàn bộ cơ sở của tờ báo ở 24 – 26 phố Orleans (nay là Phùng Hưng) Hà
Nội, cho Nguyễn Văn Vĩnh. (Nguyễn Văn Vĩnh thứ 3 từ phải qua). (Ảnh: sưu
tầm).
Trở lại tay trắng
Theo bà Suzanne (vợ thứ 3) của Nguyễn
Văn Vĩnh thì ông là người vạm vỡ, khỏe mạnh, sống rất điều độ, sáng nào
cũng tập thể dục 30 phút, trời nắng cũng như trời mưa. Ông không hút
thuốc phiện, không uống rượu, chỉ hút thuốc lào và thích đánh tổ tôm.
Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh thất bại, tất
cả sự nghiệp đã cầm cho Crédit Foncier bị tịch thu. Đầu tháng 2/1936,
ông sang Lào để tìm vàng với người bạn Pháp là Clémenti, một công dân
Pháp có đồn điền cũng đang bị phá sản. Mục đích đi Lào là đào vàng về
trả nợ! Một tháng sau, ông về Sê-pôn vì bệnh sốt rét - uống thuốc kí
ninh và đã hết sốt. Tháng 4-1936, ông về Hà Nội, được tin Tòa xử “bị tù
vì nợ”, ông bằng lòng ở tù để có thì giờ viết văn, nhưng bà Suzanne
không muốn chồng phải cảnh lao tù nên khuyên ông trốn tránh. Một tháng
sau, bà nhận điện tín từ Sê-pôn báo tin ông chết.
Cái chết của Nguyễn Văn Vĩnh
Sáng sớm ngày 1/5/1936, ông Clémen đưa
Nguyễn Văn Vĩnh xuống thuyền độc mộc trở về định ghé Sê-pôn chữa bệnh
(mỏ vàng cách Sê-pôn ba ngày đường sông). Trên thuyền ngoài ông
Clémenti, có một người hầu và một người tài xế tên Ngọc. Sáu giờ chiều
ngày 1/5/1936 về đến làng Ban San Khup, ông Vĩnh trút hơi thở cuối cùng
trên chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông Sê-băng-ghi, trong tư thế nằm
ngửa, một tay cầm cuốn sổ, một tay cầm cây bút. Chiếc thuyền đưa xác ông
về Sê-pôn và được tẩn liệm tại đây. Ngày 2/5, nhận được điện tín, nhưng
ngày 5/5/1936, bà Suzanne mới lên đến Lào với người con trai tên Nguyễn
Giang (con vợ cả). Xin được phép mở quan tài. Thi hài đã có mùi, mặt
đen kịt và tóp lại không nhận ra, chỉ nhận được cái sẹo ở trên đầu nên
mới chắc chắn là chồng bà. Ngày 6/5/1936, quan tài được đưa về đến Hà
Nội. Các nhà báo ba miền và rất đông người đưa tang dưới dòng chữ: “Kính
viếng Ông tổ của nghề báo”.
Sự tôn vinh xứng đáng sau hàng chục năm
Trong bài “Nguyễn Văn Vĩnh với sự nghiệp
báo chí quốc ngữ những năm đầu thế kỷ 20” trên báo Văn nghệ Việt Nam
ngày 18/6/2011, có đoạn: “Khi được tin ông Vĩnh qua đời, một biển người
ước lượng 12.000 người đã đến dự lễ chật cả quảng trường trước nhà ga
Hàng Cỏ đến đầu phố Gambetta (Trần Hưng Đạo ngày nay) nơi linh cữu ông
được đưa từ Lào về. Đám tang không có kèn trống, nhưng không một trái
tim nào không rung lên những xúc động. Hầu như mọi tầng lớp nhân dân từ
trẻ đến già, từ nhà quê đến tỉnh thành đều ngưỡng mộ ông. Ai cũng muốn
tiễn biệt ông lần cuối cùng người đã có công sáng lập nền báo chí An Nam
và tiễn biệt người chiến sĩ chiến đấu không mệt mỏi cho sự phát triển
chữ Quốc ngữ nước nhà.”.
Từ Điển Văn Học bộ mới, NXB Thế Giới
tháng 10/2004, các tác giả đã đánh giá cao về học giả Nguyễn Văn Vĩnh:
“Nguyễn Văn Vĩnh là một nhân vật quan trọng của buổi giao thời chủ
trương theo mới. Theo Nguyễn Văn Vĩnh, người Việt muốn bước mau trên
đường tiến hóa thì phải thâu thái lấy những tư tưởng mới, mà muốn cho
những tư tưởng mới truyền bá khắp dân gian thì phải đem những sách Âu
Tây dịch ra quốc văn. Cho nên dịch là một phương tiện để ông thực hành
đường lối canh tân của mình. Tính theo số lượng dịch phẩm và cả những
bước cải tiến làm cho câu văn dịch tiếng Việt uyển chuyển thì cho đến
trước cách mạng tháng Tám ông vẫn là người giữ giải quán quân” (Vũ Ngọc
Phan). Nguyễn Văn Vĩnh là người nhiệt thành với chữ quốc ngữ, nên trong
bài Đề tựa bản dịch Tam quốc chí của Phan Kế Bính dịch năm 1907, Nguyễn
Văn Vĩnh viết một câu bất hủ: “Nước Nam ta mai sau này, hay hay dở cũng
ở như chữ quốc ngữ”.
Theo giáo sư sử học Phan Huy Lê: “Nếu
đánh giá Nguyễn Văn Vĩnh mà chỉ dừng lại ở việc Cụ là thủy tổ của làng
báo tiếng Việt, là người có công phát triển chữ quốc ngữ và là nhà dịch
thuật thì chưa đầy đủ và thỏa đáng. Điều xứng đáng hơn và cũng là đóng
góp lớn nhất của Cụ chính là về tư tưởng. Đó là một trong những nhà tư
tưởng dân chủ của Việt Nam mang tính khai sáng. Cụ cũng là người biết
dùng văn học và văn hóa để thấm sâu vào lòng người, truyền bá những tư
tưởng tiến bộ vượt thời đại. Với người chủ soái của nền văn hóa sử dụng
chữ quốc ngữ này, tiếc rằng đã có giai đoạn lịch sử bị nhìn nhận sai
lệch”.
Nguyễn Văn Vĩnh có ba người vợ với 16
đứa con. Trong số đó, Nguyễn Dực (thứ 10), sinh năm 1921, người có công
trong việc xây dựng Đài tiếng nói Việt Nam. Ông Dực có người con trai
tên Nguyễn Lân Bình, đã bỏ ra nhiều công sức và kinh phí để sưu tầm và
in 13 tập sách trong bộ sách “Lời người Man di hiện đại” gồm những bài
báo, sáng tác và dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 2006, đã hơn 50
tuổi, Nguyễn Lân Bình hợp tác với Nghệ sĩ Ưu tú, đạo diễn Trần Văn Thủy,
quay bộ phim tài liệu lịch sử 4 tập dài 200 phút “Mạn đàm về người Man
di hiện đại”về cuộc đời và sự nghiệp của ông Nguyễn Văn Vĩnh, quay ở 7
thành phố lớn ở Việt Nam, ở Pháp, và Lào. Năm 2012, bộ phim chiếu ra
mắt, được khán giả hoan nghênh, giúp mọi người hiểu đầy đủ về hoạt động
và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Văn Vĩnh.
Sau 80 năm qua đời, những việc làm có ý
nghĩa to lớn đối với đất nước của nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn
Văn Vĩnh đã được trả về vị trí xứng đáng trong lịch sử dân tộc. Ở quận
Tân Bình, có một con đường mang tên Nguyễn Văn Vĩnh. Hà Nội, nơi sinh ra
ông và trưởng thành cùng những hoạt động chính của ông, nên có một con
đường xứng đáng với cống hiến của ông cho thế hệ sau noi theo.
Theo: daidoanket.vn