Sách “Lê triều lịch
khoa tiến sĩ đề danh bi ký”, trong “Văn bia đề tên tấn sĩ khoa Nhâm Tuất
niên hiệu Đại Bửu thứ 3 (1442)”, tên tuổi Lương Như Hộc nằm thứ ba
trong hàng Đệ nhất giáp, ứng với vị trí Thám hoa, ghi rõ: “Lương Như
Hộc, người xã Hồng Lục, huyện Trường Tân”.
Thám hoa đầu tiên nhà Lê sơ
Ấy là nói về lúc họ
Lương được “võng giá nghênh ngang” thời trị vì của vua Lê Thái Tông. Và
theo ghi chép trong sách “Tam khôi bị lục”, thì họ Lương chính là “Khai
quốc Thám hoa” thời Lê sơ. Trước đó, năm Lương Như Hộc 18 tuổi, đỗ hương
cống thi Hương.
Đường làm quan của Thám
hoa Lương Như Hộc, trải qua thời các vua Thái Tông, Nhân Tông, Nghi Dân
rồi Thánh Tông. Ghi về các danh nhân đất Hải Dương, sách “Hải Dương
phong vật khúc” có đôi câu về quan họ Lương:
Họ Lương đủng đỉnh đai cân,
Hai phen sứ dịch phụng lân ra tài.
Sau khi nên danh đường
khoa cử, Lương Như Hộc bước chân vào chốn miếu đường, làm quan nhà Lê.
Nhiều việc làm của ông, được sử ghi lại, trong đó, có dăm ba dấu ấn đáng
chú ý.
Với khả năng chữ nghĩa
đã được khẳng định qua mấy lần “lều chõng”, quan họ Lương hai lần được
tín nhiệm tham gia đoàn sứ bộ Đại Việt đi sứ phương Bắc. Ấy là vào ngày
16/11 năm Quý Hợi (1443), đoàn sứ bộ của Hà Phủ, Nguyễn Như Đổ và Lương
Như Hộc sang minh đáp từ đã sang tế vua Thái Tông mất trước đó. Lúc này,
họ Lương là Ngự tiền học sinh cục trưởng.
Cuối năm Kỷ Mão (1459)
thời Lê Nghi Dân, một lần nữa ông có mặt trong sứ bộ sang Minh, được
Toàn thư chép: “Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, Lương Như Hộc, Trần Bá
Linh sang nhà Minh cầu phong”.
Thời vua Nhân Tông, năm
Kỷ Tỵ (1449), bấy giờ Lương Như Hộc đang làm An phủ sứ lộ Quốc Oai,
trong đợt xếp đặt quan chức tháng 11 năm này, ông cùng với An phủ sứ lộ
Quy Hóa Nguyễn Như Đổ được bổ làm Hàn lâm trực học sĩ. Mẹ con vua Lê
Nhân Tông bị hại, nối qua thời Nghi Dân, ông được sung vào sứ bộ sang
Minh. Công nghiệp của quan họ Lương được nói tới nhiều, ấy là ở thời vua
Lê Thánh Tông.
|
Mộc bản xưa
|
Thời vua Thánh Tông trị
vì, Lương Như Hộc làm Lễ bộ Tả thị lang, rồi Trung thư sảnh Bí thư giám
học sĩ, tham gia sửa sách lề lối làm việc trong việc triều chính. Tỉ
như năm Bính Tuất (1466), sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép:
“Bọn Trung thư lệnh bí
thư giám học sinh Lương Như Hộc vâng mệnh nghị thảo rằng: “Những bản
viết của các nha môn, nếu gặp khi chánh quan khuyết hoặc đi việc quan
vắng, thì quan tá nhị thay giữ ấn tín của nha môn ấy ký tên ở dưới chỗ
đề năm, tháng”. Việc
Sách “Tam khôi bị lục”
ghi đoạn cuối đường hoạn lộ của ông là “Niên hiệu Quang Thuận, thăng Tả
Thị Lang bộ Lễ, rồi Trung thư lệnh kiêm Bí thư Giám học sĩ, về hưu. Thọ
82 tuổi”. Bên cạnh đời làm quan của họ Lương, dấu ấn lớn nhất, hẳn là
công lao với nghề in nước Việt.
Dày công học nghề khắc in gỗ
Cái chí muốn tìm hiểu
nghề in của Lương Như Hộc, nguồn cơn được sách “Giai thoại làng Nho” kể,
ấy là có lần ở đất Thăng Long, nhân việc tìm mua bộ sách cho bạn, mà
sách hồi ấy toàn của Trung Hoa đem sang, giá bán rất đắt, học trò ai có
tiền mua, sau lại cho bạn mượn chép, bởi dân ta chưa in được sách. Tìm
qua các hiệu của người Hoa thì hết sách; đến hiệu có sách, thì giá cao
ngất ngưởng.
Chủ bán cho hay: “Lúc
này thuyền bên Tàu sang chậm nên khan sách”. Sách đắt, Lương Như Hộc
không chịu mua, lấy làm không vừa lòng. Từ dạo ấy, họ Lương đã nuôi cái
mộng phải học được nghề in để người nước ngoài không chi phối việc bán
sách nữa.
Rồi ước mong ấy cũng
đến. Nhân tham gia đoàn sứ bộ Đại Việt sang nhà Minh, họ Lương rắp tâm
phải thực hiện cho được. Dạo ấy, Trung Hoa vẫn còn lối in khắc bản gỗ.
Mà người Hoa, hễ có nghề gì hay lạ, thì thường giữ riêng trong gia đình
cha truyền con nối chứ hiếm khi lộ ra ngoài.
|
Nghề in xưa của Trung Hoa
|
Lại nữa, sứ bộ nước nào
đến, cũng được một cơ quan giám sát cẩn mật là Lý phiên viện, nơi ở là
công quán thì tách biệt với dân chúng, không dễ gì mà “tung tăng” ra
ngoài phố thị. Vậy thì học làm sao?
Biết thật khó để qua
được tai mắt của lính canh Trung Hoa giám sát sứ bộ, họ Lương dần dà mua
chuộc được chúng, rồi thường ra ngoài thành du ngoạn, tiện bước vào
Khâm Thiên giám cùng các ngôi chùa có thợ khắc làm việc, xem cách thức
khắc bản ra sao.
Rồi ông làm quen với
bọn thợ giỏi, dò la học hỏi dần dần rồi nắm được những điểm cần thiết
của việc in ấn ấy. Trong “Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945” cho
rằng, có thể ông đã học được nghề in trong lần đi sứ năm Quý Hợi (1443),
nhưng nhiều chỗ còn thô vụng, nên lần đi sứ thứ hai năm Kỷ Mão (1459),
Lương Như Hộc đã dụng tâm tìm hiểu kỹ càng hơn.
Sách “Việt Nam danh
nhân từ điển” thì cho hay về việc học nghề của quan họ Lương. Ấy là “giả
làm thương khách, ông đến Bắc Kinh mở hiệu buôn bán ngay cạnh một nhà
in rồi khoét vách để xem xét công việc của nhà in. Khi đã biết rõ tất cả
bí quyết của nghề in, ông bỏ hiệu buôn, lén trở về nước”.
Truyền nghề mở mang sinh kế cho dân
Sách “Đại Nam dư địa
chí ước biên”, có câu: “Liễu Chàng, Hồng Lục, quan Thám hoa thành thầy
dạy khắc ván in”, chính là nói về Lương Như Hộc. Sau khi học được nghề
khắc mộc bản ấy, về nước, Lương Như Hộc liền truyền nghề cho người làng
mình.
Theo “Giai thoại làng
Nho” thì “sau người làng Liễu Chàng gần bên cũng sang học. Hai làng này
mở đầu nghề in của nước ta”. Thế nên, trong “Hải Dương phong vật khúc”,
khi viết về hai làng này, có câu:
Phường Hồng Lục, Liễu Tràng khắc chữ,
Bản bộ kinh, bộ sử rành rành.
Để nghề in được bén rễ
và có cơ phát triển, ông nhiều phen chung sống với thợ, ngày ngày ngồi
chỉ bảo cho họ từng li từng tí, nào là loại gỗ gì thịt mềm mỏng, dễ
khắc, không bị cong vênh, mối mọt. Nào là dùng thứ dầu gì thoa giấy để
lộ nét rõ ràng mà khắc. Nào dao này bào gỗ, dao kia gọt nét… Nhờ đó,
nghề khắc bản in mộc bản dần dà trở nên đắc dụng ở quê ông.
|
Mộc bản xưa
|
Cũng bởi được truyền
nghề quý, kiếm sống được và truyền đời này qua đời khác, mà như “Hải
Dương địa dư” cho hay, “đến nay, dân hai xã đó còn thờ ông làm Tiên sư”,
tức là dân Liễu Chàng, Hồng Lục. Nhờ được truyền nghề ấy, dân Liễu
Chàng, Hồng Lục nhiều thợ sành nghề lắm.
Trong sách “Báo chí
Việt Nam từ khởi thủy đến 1945” còn cho biết “vào khoản 1942, 1943 và
1944 ở Hà Nội, các sách xuất bản có in kèm chữ Hán muốn cho nét chữ được
sắc sảo, hầu hết các nhà xuất bản đều nhờ thợ khắc ở hai làng kể trên,
thường gọi tắt là thợ khắc ở Hải Dương”.
Ngoài nghiệp chính trị,
theo ghi chép trong “Thành ngữ, điển tích danh nhân từ điển”, danh thần
họ Lương là tác giả của tập thơ chữ Nôm “Hồng châu ngôn ngữ thi tập” và
bài thơ “Tiêu tương bát cảnh”. Riêng về nghề in, thật không quá khi nói
rằng, Lương Như Hộc chính là ông tổ nghề khắc bản in của nước ta vậy…
Theo: baophapluat.vn