Từ ý nguyện của vị Thượng tọa
Các tư
liệu lịch sử cho biết, từ nửa đầu thế kỷ 20, trụ trì ngôi chùa Thần
Quang là Thượng toạ Vĩnh Tường thuộc hệ phái Tào Động. Xuất phát từ lòng
thành kính tu đạo, ông có ý định làm một điều gì đó đặc biệt để thể
hiện tâm nguyện của mình đối với Đức Phật. Ông bày tỏ ý nguyện đó trước
hàng trăm chư tăng và Phật tử: “Tôi nghĩ cần có sự trang nghiêm và tôn
kính thờ Phật. Hàng trăm pho tượng nhỏ, bình thường không gây được trong
lòng người sự khởi kính và lòng tin mạnh mẽ. Từ lâu nay, tôi có ý định
chỉ thờ trên chùa ba pho tượng thôi: A Di Đà ở giữa, hai vị Bồ tát (Đại
Thế Chí và Quán Thế Âm) thì lập hai bên. Tượng phải thật nguy nga, đồ
sộ. Điều nữa là tôi muốn làm một điều gì thật khả dĩ khiến người nước
ngoài phải chú ý tới Phật giáo Việt Nam. Ba là để đề cao trình độ văn
hoá - mỹ thuật nước nhà, ghi nhận một bước tiến mới trong kỹ thuật đúc
tượng …”
Tượng Phật
|
Ý tưởng
của ông được các tăng ni, Phật tử và toàn cư dân, nghệ nhân và thợ đúc
đồng làng Ngũ Xã (nay thuộc phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội)
nhiệt liệt ủng hộ. Một phong trào vận động quyên tiền của cả trong làng
và các làng lân cận được phát động, thu được khoản tiền lớn tới 800
nghìn đồng Đông Dương thời bấy giờ cho việc đúc tượng. Ngoài ra, còn
quyên góp được một khoản tiền lớn khác và cả vàng (dưới dạng vàng lá,
vàng miếng, nhẫn, hột xoàn…) để xây dựng chùa Thần Quang.
Những tay nghề tuyệt diệu
Một ban
chỉ đạo kỹ thuật được bầu ra do người thợ cả tài hoa Nguyễn Văn Tùy đứng
đầu. Các tay thợ lành nghề trợ giúp gồm Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Văn
Pháp, Nguyễn Văn Dùng và Lại Văn Ngân. Thiết kế mẫu tượng do ông Nguyễn
Văn Hậu, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đảm nhận. Để làm
được công trình trình kỳ vĩ này, kíp thợ đã làm việc trong suốt ba năm
(1949 - 1952). Từ tính toán và bản vẽ trên giấy rồi làm khuôn mẫu, ghép
trong, lồng ngoài… cho tới nấu đồng nóng chảy để rót vào khuôn là cả một
quá trình học hỏi, lao động miệt mài và sáng tạo của kíp thợ.
Ngày
25/10/1952 là ngày khởi đầu cho công đoạn quyết định: nấu đồng chảy để
rót vào khuôn. Riêng công đoạn này, ban chỉ đạo đã phải huy động đến 300
người nấu đồng và phục vụ đúc tượng. Từ ngày 26/10/1952 (tức ngày 8/9
năm Nhâm Thìn), nhiều người dân ở vùng xa gần nô nức đổ về làng Ngũ Xã
như trảy hội, như một tín hiệu tốt lành với sự thành công của việc đúc
đại tượng này. 10 giờ sáng hôm đó, đồng được rót vào khuôn. Công việc
tiến hành liên tục cho tới 13 giờ 10 phút. Đó là ba tiếng đồng hồ lịch
sử của người dân đúc đồng Ngũ Xã nổi tiếng.
Pho đại
tượng Phật A Di Đà ở chùa Thần Quang này là một trong những đỉnh cao của
nghệ thuật đúc đồng thời đó. Tượng có chiều cao 3,95 m, chu vi phần
dưới là 11m, chu vi toà sen (bệ tượng) là 15 m, tổng cộng trọng lượng là
khoảng 6,5 tấn. Đức A Di Đà rất đẹp, thần thái ung dung, tĩnh tại của
Đấng Từ bi. Đặc biệt, đây là pho tượng thể hiện trình độ kỹ thuật đúc
đồng có một không hai của Việt Nam: đúc liền khối mà rỗng. Nét mặt ngài
cân đối, đầy vẻ từ tâm, trang nghiêm mà đôn hậu của Đức Vô lượng quang
Phật, Vô lượng thọ Phật. Tổng tư lệnh quân đội Pháp thời đó là tướng
Xa-lăng đã thể hiện sự sùng kính bằng cách gửi đội công binh cùng các
phương tiện kỹ thuật như xe tải, cần cẩu, ròng rọc, con lăn… đến để giúp
đưa tượng Phật vào đúng vị trí.
Các thiện nam tín nữ đã gửi vào đây sự ngưỡng vọng của mình:
Thần đức quang hàm thông vũ trụ,
Phép luân hồng chuyển biến đông tây.
Dịch nghĩa:
Đức thần sáng rộng thông trời đất
Xa pháp quay liền khắp đông tây
Đại tượng
A Di Đà giữ hình ảnh hiện thân, nhập thế của Đức Tây phương Cực lạc
Giáo chủ luôn hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh, mang ánh sáng
của nhà Phật đến mọi miền vũ trụ, đến với mọi chúng sinh khổ đau. Đại
tượng này hiện đứng thứ hai về trọng lượng, chỉ sau đại tượng Đức Phật
tổ Như Lai của nghệ nhân Vũ Văn Thuấn, làng đúc đồng Ý Yên, Nam Định
(hiện an tọa tại chùa Non Nước, Sóc Sơn, Hà Nội). Đó là kỷ lục mới thời
khoa học- kỹ thuật hiện đại. Cả hai vị đại tượng này đã trở thành huyền
thoại sống, ghi một dấu ấn đặc biệt trong lòng mọi tăng ni, Phật tử và
là minh chứng sống động về sự phát triển trình độ của những bàn tay vàng
của nghề đúc đồng Việt Nam.
Hồng Quang, Báo Nông nghiệp