|
Biền dâu Mã Châu sau cơn lũ. |
Làng
nghề Mã Châu là sự hợp thành của 4 làng Mã Đông, Mã Tây, Mã
Thành, Mã Thượng, nên còn gọi là làng nghề Tứ Mã. Được hình
thành từ thế kỷ XVI, bên cạnh kinh đô Trà Kiệu, làng nghề Mã
Châu chuyên dệt lụa cung cấp cho giới quý tộc, quan lại trong
các vương triều. Tơ lụa Mã Châu có mặt ở thị trường nhiều
nước ở Châu Âu và Đông Nam Á kể từ khi xứ Đàng Trong mở cửa
giao thương với các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc và các nước
Châu Âu qua cảng thị Hội An. Trong chiến tranh, hầu hết người
Mã Châu phải ly quê vào Nam làm nên làng dệt ở Ngã Tư Bảy Hiền
– Sài Gòn, số còn lại hoặc trụ bám hoặc ra Đà Nẵng. Trong
đó ở làng Cổ Mân, quận Ba, Đà Nẵng có đến 100 hộ định cư,
làm nên làng dệt Mã Châu. Tuy nhiên cho dẫu ở đâu, người Mã Châu
vẫn giữ được hồn vía của một làng nghề có đến hàng trăm năm
tuổi. Người Mã Châu đi đâu ở đâu cũng luôn tự hào và ghi nhớ
về công đức của tổ tiên khai nghiệp. Thời khó khăn nhất sau
ngày giải phóng, tiếng thoi đưa vắng dần, làng Mã Châu buồn
tẻ, không còn một ai ở lại trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
thì anh Trần Hữu Phương, Giám đốc Hợp tác xã tơ lụa Mã Châu,
một mình ở lại cố bám víu mảnh hồn làng, nghĩ ra nhiều cách
để giữ cho bằng được cái tên làng Mã Châu. Năm 1978, ngày
thành lập, Hợp tác xã tơ lụa Mã Châu có 300 cổ đông. Tuy nhiên
trong hoàn cảnh cạnh tranh với cơ chế thị trường đầy khắc
nghiệt, lâu nay HTX chỉ còn 8 cổ đông, 17 thợ dệt và nhân viên
hành chính, anh Trần Hữu Phương vẫn không nao núng. Anh vay mượn
người thân, bạn bè để có được nguồn vốn hoạt động. Một thực
tế hiện nay ở Mã Châu là người dân không còn mặn mà với nghề
trồng dâu nuôi tằm. Vì vậy, từ 5 năm qua, HTX phải mua tơ ở tận
Bảo Lộc, Lâm Đồng. Bằng tất cả nỗ lực, HTX tơ lụa Mã Châu đã
và đang trụ hạng, làm ra nhiều mặt hàng đẹp về màu sắc, tốt
về chất lượng...
Trong câu chuyện tơ tằm đầy cảm hứng, anh
Trần Hữu Phương không giấu được niềm vui khi chính anh đã cùng
tập thể làm ra một loại sản phẩm tơ tằm độc đáo là chăn tằm.
Loại tấm đắp này có cách làm khá thú vị khi chờ cho đến
ngày tằm chín, nghĩa là thời kỳ tằm nhả tơ. Lúc ấy con tằm
đang quay quắt tìm ổ để nhả tơ, nhờ vậy tơ sẽ được nhả đều
trên thảm. Thay vì cho tằm nhả tơ trong nong, anh cho tằm nhả tơ
trực tiếp 2 lớp trên một tấm thảm có kích thước 200 cm x 220 cm
dành bán trong nước, 220 cm x 240 cm dành bán ra nước ngoài. So
với chăn tằm sản xuất theo công nghệ thì loại chăn tằm làm thủ
công như thế này có nhiều ưu điểm hơn đối với người tiêu
dùng...
Qua rồi Mã Châu thời khai khẩn, Mã Châu thời vàng
son, Mã Châu thời loạn lạc, Mã Châu hồi sinh. Bây giờ Mã Châu
tiếp tục cuộc hành trình hội nhập. Những tấm lụa xinh xắn
làm đẹp thêm cuộc đời này có cả ký ức, hiện tại và tương
lai. Mã Châu mơ ước một ngày không xa tên mình được xướng lên
trên đỉnh cao của thời đại. Ước mơ ấy bước đầu hình thành
những ý tưởng qua đề án Khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống dâu tằm, tơ lụa Mã Châu gắn với du lịch làng nghề
do Hợp tác xã tơ lụa Mã Châu xây dựng hồi tháng 11-2016, đang
nằm trên bàn của các nhà lãnh đạo tỉnh. Những lời tâm huyết
đã được nói lên, mong mỏi sự đồng cảm và thấu hiểu vì sự
sống còn của tơ lụa Mã Châu rằng trải qua biết bao biến đổi
thăng trầm của lịch sử, làng nghề Mã Châu vẫn tồn tại và
phát triển. Hình ảnh dâu tằm tơ lụa Duy Xuyên nói chung, Mã Châu
nói riêng đã khắc sâu vào thời gian, khó phai mờ. Đặc biệt
trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam dâu tằm tơ lụa xứ Quảng
cũng được khắc họa như là một chất liệu độc đáo. Trong tác
phẩm “Trái tim tôi ở Hội An”, nữ văn sĩ Khánh Linh đã nhắc đến
chất phụ gia kết dính các viên gạch với nhau làm nên những
đền tháp thế kỷ Chămpa bằng thân tằm nấu chín (không phải tằm
non); nhà thơ Tường Linh, người con xứ Quảng ở Sài Gòn nhớ quê
hương rằng: Sáng Duy Xuyên tơ vàng giăng nghẽn lối/ Chiều Điện
Bàn xe đạp nước thay mưa; nhà thơ Võ Bá, người con của Duy
Xuyên thì viết: Mỏng tang tờ lịch trên tay/ Bao điều chưa kịp
một ngày đã qua/ Ơn đời bồi bãi phù sa/ Cành dâu ký gửi có ra
tơ tằm; từ Hội An, nhà thơ La Trung nhớ Duy Xuyên: Lá dỗ chợt
thương mấy độ thân tằm/ Nhả tơ vàng ủ hạt mầm nguyên sơ; bên kia
sông Thu, ở làng Gò Nổi hay còn gọi là Phù Kỳ – Điện Bàn
nghệ nhân Trần Thu làm nên một tác phẩm điêu khắc gỗ mà đáng
chú ý là 2 họa tiết sinh động, giàu hình ảnh, tính khái quát
rất cao trong ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình về cái ăn cái mặc.
Đó là hạt gạo và lá dâu; còn tôi dẫu không sinh ra trên đất
lụa tơ tằm Mã Châu, nhưng chỉ một lần ghé qua đã phải lòng:
Ngõ quê tơ lụa vấn vương/ Ngõ lòng ai níu mà thương chân người/
Biền dâu ai giấu nụ cười/ Để tằm ươm mộng tay người xe tơ/ Lụa
là mặc áo cho thơ/ Xin em đừng mặc hững hờ lưng thon/ Khổ đôi
con mắt mưa mòn/ Trăm bậc đá cũng phải còn ngẩn ngơ/ Về thôi
Trà Kiệu trăng chờ/ Cây đa sót lá bơ phờ mắt trông/ Sót trong
tôi một bóng hồng/ Gác chuông sót một giọt nồng môi em. Trước
bao biến đổi của thời cuộc, sự thủy chung là thước đo lòng
người. Cây dâu cũng vậy. Từ trong ruột rà của nó cũng đã chứa
chan tình cây và đất, để một ngày dành cho cuộc đời cái sắc
tím thủy chung chiết ra từ trái dâu chín. Lương y Lê Văn Long,
người con xứ lụa một đời thấu hiểu hơn ai hết về cái giá trị
của cây dâu hay nói cách khác cây dâu không chỉ góp phần làm
nên cái mặc, giữ hơi ấm cho làng nghề, truyền hơi ấm làng nghề
dâu lụa tơ tằm cho mai sau mà còn là loài cây cho ta nhiều vị
thuốc. Một thời dâu lụa, một thời tơ tằm đã để lại bao đời
người không ít đắng cay, hạnh phúc. Mã Châu vẫn còn đó những
giấc mơ hội nhập. Chao ôi cái sợi tơ tằm/ Mãi còn vương vấn
tháng năm bưng biền/ Tiếng thoi mang nỗi niềm riêng/ Một bờ gió
mỏng thổi nghiêng cái nhìn/ Phù sa mùa lá dâu xinh/ Giấu trong
màu lụa mối tình Mã Châu.
Theo: cadn.com.vn