Nép
mình bên dòng sông Nhuệ hiền hòa, làng rèn Đa Sỹ (nay thuộc phường Kiến
Hưng, quận Hà Đông, TP Hà Nội) vốn là một trong những làng nghề rèn nổi
tiếng và lâu đời tại đồng bằng Bắc bộ. Con đường nhỏ dẫn vào làng quanh
co, tiếng đe, tiếng búa thi nhau vang lên chan chát, từng viên gạch
dưới chân cứ thế rung lên theo nhịp đập.
Danh thơm một thuở
Theo
sử sách, trước đây làng có tên là làng Sẽ, sau đổi thành Đan Khê, Huyền
Khê, Đan Sỹ, và cuối cùng làng được đổi là Đa Sỹ từ giữa thế kỷ 18. Cái
tên Đa Sỹ được dùng cho tới ngày nay mang ý nghĩa là vùng đất khoa bảng
với nhiều tiến sĩ.
Làng Đa Sỹ là nơi sản sinh ra 11 tiến sĩ, 1 lưỡng quốc trạng nguyên được lưu danh trên văn bia Quốc Tử Giám.
Nổi
bật trong số đó là tiến sĩ Hoàng Trình Thanh, làm quan qua 4 triều vua,
là người có công lập nên "Vườn học" duy nhất của nước ta dưới thời Lê.
Còn lưỡng quốc trạng nguyên Hoàng Nghĩa Phú được người đời truyền tụng
với Sớ 7 điều dâng vua.
Dân làng lập miếu thờ danh y Hoàng Đôn
Hòa được vinh danh là "Lương y dược đại vương" dưới thời Lê, hậu duệ đời
đời ghi ơn với 208 bài thuốc trị bệnh cứu người, được coi là ông tổ
ngành quân y Việt Nam và tôn thờ làm Thành Hoàng làng. Có 38 đạo sắc
phong vua ban cho các tiến sĩ làng Đa Sỹ được lưu giữ tới ngày nay.
Theo
các bậc cao niên trong làng, nghề rèn ở Đa Sỹ có từ thời Hùng Vương thứ
18. Khi đó, người dân trong làng rèn các vũ khí thô sơ như giáo mác
cung cấp cho các lạc hầu, lạc tướng, giữ yên bờ cõi và rèn các nông cụ
phục vụ sản xuất lao động.
Phải đến thời nhà Trần, Đa Sỹ mới
chính thức trở thành làng rèn chuyên nghiệp khi hai cụ Nguyễn Thuật và
Nguyễn Thuần đến từ Thanh Hoá truyền dạy cho dân làng bí quyết nghề rèn
để tạo ra các sản phẩm tinh xảo.
Bền bỉ giữ nghề tổ
Nghề
rèn vất vả, quanh năm phải tiếp xúc với hơi than độc hại. Nhất là trong
những ngày hè oi bức, ngồi bên bếp than rực lửa với tiếng đe, tiếng búa
chan chát bên tai, không phải ai cũng muốn gắn bó.
Ông Hoàng Văn Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Đa Sỹ bộc bạch: "Trước
đây, cả làng có gần 1000 hộ làm nghề rèn, nay chỉ còn hơn 800. Số thanh
niên theo đuổi nghề cũng ít dần theo đà đô thị hóa, số giỏi nghề lại
càng đếm trên đầu ngón tay".
Đã ngoài 60 tuổi, nhưng đôi
bàn tay ông Lê Văn Phấn vẫn thoăn thoắt đánh búa vào phôi thép đỏ rực
vừa được rút từ trong lò than, chả mấy chốc miếng phôi đã định hình
thành một con dao.
Gia đình có truyền thống làm dao, kéo ở Đa Sỹ
từ nhiều đời nên ông Phấn được tiếp xúc với nghề rèn từ nhỏ. Theo ông,
để tạo ra được một sản phẩm có chất lượng tốt rất công phu, khâu quan
trọng, đòi hỏi nhiều kỹ thuật nhất là tôi thép và làm nguội.
Đầu
tiên, những người thợ sẽ cắt các bản sắt thành hình dạng của sản phẩm,
sau đó cho lên lò nung với nhiệt độ hơn 1.000 độ C. Tùy thuộc vào từng
loại nguyên liệu thép và sản phẩm tạo ra dày mỏng, thời gian nung sẽ
khác nhau. Khi phôi thép nung chuyển sang màu đỏ trắng là đến lúc đặt
lên đe để quai búa.
Các cụ ngày xưa còn có một kinh nghiệm để
thử nhiệt độ thép nung đạt chuẩn hay chưa là lấy tay vục vào xô nước,
nhỏ vài giọt lên bề mặt phôi thép, nếu thấy nước biến thành các hạt nhỏ
li ti nhảy múa là đủ độ. Nếu nung quá lửa, dao dễ bị mẻ, bị giòn, dễ vỡ
như gang. Do yêu cầu thao tác quai búa phải nhanh, mạnh, dứt khoát, đòi
hỏi rất nhiều sức lực của người thợ, vì thế người đứng lò hầu hết là các
thanh niên trai tráng.
Qua
khâu rèn trong lửa, thì đến công đoạn gọt cánh (gọt bỏ những phần sắt
thừa) để tạo hình dáng hoàn chỉnh cho sản phẩm. Người thợ gọt cánh phải
kẹp con dao giữa hai thanh tre đặt nghiêng 45 độ thì lưỡi dao mới có độ
mỏng đều và sắc. Các công đoạn tiếp theo là mài nước, gạt màu, đánh phớt
bóng, bôi dầu, tra cán thường được người già, phụ nữ và thiếu niên đảm
nhiệm, bởi khâu này không đòi hỏi sức lực cũng như kỹ thuật cao.
Cũng
theo ông Phấn, mỗi hộ rèn ở Đa Sỹ đều có bí quyết riêng, nhưng điểm
chung là thép phải tốt và kỹ thuật cao mới cho ra lò những con dao, cây
kéo sắc bén.
Trước
đây, người dân Đa Sỹ mất rất nhiều công sức mới làm ra được một sản
phẩm. Theo xu thế phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày nay,
nghề rèn ở Đa Sỹ đỡ vất vả hơn nhiều, năng suất cũng tăng cao do các hộ
làm nghề đầu tư thêm máy móc tự động, bán tự động.
Những khâu
gia công yêu cầu nhiều sức lao động đã được máy móc thay thế bằng búa
máy, sạt lưỡi bằng máy... Người thợ chỉ làm thủ công các công đoạn hoàn
thiện sản phẩm như tạo hình dáng và kỹ thuật “tôi” để dao sắc và cứng…
Vì thế, nghề rèn vẫn giữ chân được người lao động.
Tuy
nhiên, người dân làng nghề vẫn còn nhiều băn khoăn, trăn trở. Dao Đa Sỹ
chưa khắc phục được nhược điểm hoen gỉ, mẫu mã, hình thức của sản phẩm
cũng chưa hấp dẫn nên chưa thâm nhập được vào thị trường hàng gia dụng
cao cấp. Vì vậy, ít được bày bán trong hệ thống các siêu thị, trung tâm
thương mại lớn.
Theo: phapluatplus.vn