Nhịp chày Yên Thái xưa
Nghề làm giấy xuất
hiện khá sớm trên thế giới, tương truyền ông tổ của nghề làm giấy là Nguyễn Thế
Luân người đời Tấn. Ở Việt Nam,
nghề làm giấy xuất hiện vào khoảng thế kỉ III - IV, phường Yên Thái - Hồ Tây - Hà Nội có nghề làm
giấy dó đã tồn tại hàng nghìn năm. Theo thần phả ở đình làng Đông Xã, hiện nay
còn thờ cụ tổ nghề là Nguyễn Thúy Thái (cháu xa đời của cụ Nguyễn Thế Luân) là
người đã mang kỹ thuật làm giấy truyền cho ba làng Yên Thái, Đông Xã và Thọ Đôn.
Theo sách Việt Điện U Linh, thì vào thời nhà Lê,
dòng họ Nguyễn Thế ở Đông Xã đã có người làm giấy dó để tiến vua. Thời ấy, giấy
dó lụa (còn gọi là giấy quỳ) được coi là mặt hàng cao cấp dùng để in tranh,
kinh phật và viết chữ, bởi chất liệu giấy nhẹ, mặt giấy mỏng và dai như lụa, không
bị thấm nước, không bị mối mọt, có thể giữ được lâu và tái chế lại được.
Cách làm giấy dó
của Phường Yên Thái cũng giống cách làm giấy của các làng nghề giấy thủ công
khác nhưng khâu lựa chọn và xử lý nguyên liệu được những người thợ ở đây rất
chú trọng. Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới nên thực vật rất phong phú và đa
dạng với nhiều loại cây khác nhau, nhưng để làm giấy thì người phường Yên Thái
chỉ sử dụng 6 loại cây chính là dó, bo, cãnh, dướng, mật và mộc, trong đó, để
làm loại giấy dó lụa thì người ta chỉ sử dụng vỏ cây cãnh còn vỏ cây mộc là
loại vỏ xấu và thô nhất thường được dùng để làm giấy gói hàng.

Phiên chợ giấy xưa
Vỏ các loại cây
trên sau khi lấy về, được san thành những bó nhỏ và được ngâm trong nước sạch
để loại bỏ bụi bẩn và tạp chất, sau đó cho vào nước vôi loãng ngâm khoảng nửa
buổi để cho nước vôi thấm đều vào lớp vỏ cây. Tiếp đó người thợ tiến hành muối
vôi vỏ cây để sau này khi tráng (seo) giấy thì bột tơ mềm và không bị nát. Vỏ
cây được muối vôi khoảng một ngày thì được đem ra sông rửa sạch chất vôi, để
ráo và cho vào một cái vạc lớn để đồ vỏ. Công đoạn xử lý nguyên liệu này thường
mất từ 2 - 3 ngày và có một gia đình trong làng chuyên nhận đảm trách công việc
này, thời kỳ nghề giấy thịnh vượng nhất ở làng có tận 4 cái lò đồ vỏ được đặt
ngay bên ao làng làm suốt ngày đêm mà vẫn không đủ nguyên liệu cho làng dùng.

Người dân Yên Thái xưa đang xử lý nguyên liệu vỏ cây
làm giấy
Các loại vỏ cây sau
khi được đồ lên sẽ trở nên mềm, dẻo và dai, lúc này những người thợ vớt ra, đem
về đạp (nếu là vỏ cây dó thì lột). Thông thường lớp vỏ ngoài sần sùi sẽ cho sợi
tơ giấy thô, cứng, càng vào lớp trong sợi tơ sẽ mỏng và mịn hơn, đây là loại
sợi tơ giấy tốt nhất dùng để làm giấy dó lụa. Theo những cụ cao niên trong
làng, nghề làm giấy là nghề “làm chơi, ăn thật”, một tháng chỉ vất vả có 10
ngày trong đó 5 ngày là vất vả nhất, đó là công đoạn giã và seo giấy. Sau khi
công đoạn đạp vỏ dể lọc vẩy, người thợ tiếp tục cho tơ giấy vào ngâm trong bể
có hòa vôi để đảm bảo đủ độ bở của tơ, sau đó đem giã bìa, đánh tơ và tráng
giấy.

Nhịp chày Yên Thái

Giếng làng, nơi dân làng nghề xưa vừa lấy nước để ăn
vừa lấy nước để sản xuất
Công đoạn tráng
giấy chủ yếu do phụ nữ làm. Nước dùng để tráng giấy được pha thêm nhựa của cây
mò để tạo độ nhớt giúp bột giấy không bị đọng lại đồng thời để tạo chất kết
tủa. Dụng cụ tráng giấy được làm từ nan tre hoặc đồng (liềm seo) có nhiều nan
đan lại với nhau, người thợ dùng liềm xeo cho vào bể bột giấy và tiến hành
tráng giấy, những sợi tơ bám vào các mắt lưới ngang, dọc, chồng chéo khác nhau
tạo nên một lớp giấy mỏng, dai như lụa. Tráng xong giấy thì tiến hành ép uốn,
sau đó thì bóc uốn và cho vào lò can giấy thời gian “chừng một gánh rơm” (cách
dùng từ của người thợ làm giấy xưa) là đủ.
Giấy dó thời xưa
quý lắm, nhà ai có giấy dó để viết thư pháp hoặc chép sách thì sách không bị
mối mọt, chữ không bị nhòe, để vài ba chục năm mà vẫn nguyên như mới không
giống với loại giấy công nghiệp bây giờ. Giấy dó lụa qua các công đoạn thủ
công, tơ giấy được xếp đan chéo, kết tủa vào nhau với các sợi tơ dài từ 8 li
đến 1 phân còn giấy công nghiệp do dùng máy xay nên sợi tơ giấy chỉ đạt 2 - 3
li.
Nghệ nhân Nguyễn Thế Đoán
Nghệ nhân Nguyễn
Thế Đoán bồi hồi nói về cái nghề truyền thống đã ngấm vào trong xương máu của
gia tộc mình “Giấy dó lụa ngày xưa quý
lắm, chất lượng cũng tốt hơn, hồi tôi còn nhỏ vẫn thấy người ta làm giấy dó,
nhưng sau năm 70 thì nghề giấy cứ lụi dần. Bây giờ có làm được giấy dó thì cũng
chỉ được bằng 5 - 6 phần các cụ nhà ta ngày xưa thôi!”
Ước mong xây dựng lại nghề tổ của cha ông
Tìm về Phường giấy
Yên Thái xưa, chúng tôi đến gặp nghệ nhân Nguyễn Thế Đoán, vừa trông thấy ông
đã đón chuyện: “Đến hỏi về nghề làm giấy
phải không? Không biết bao giờ tôi mới có được một xưởng làm giấy nho nhỏ để
khôi phục lại nghề truyền thống của cha ông”.
Nghệ nhân Nguyễn
Thế Đoán là truyền nhân duy nhất của dòng họ Nguyễn Thế nổi tiếng về nghề làm
giấy. Người ta thường truyền tụng nhau rằng, giấy dó của Nguyễn Thế là loại tốt
nhất ngày xưa được dùng để tiến vua và đàn bà con gái Nguyễn Thế cũng là những
người tráng (seo) giấy khéo nổi tiếng. Từ nhỏ, ông Đoán đã được học nghề làm
giấy dó từ ông nội. Đến nay, mặc dù đã ngoài độ tuổi thất thập nhưng những kỹ
thuật làm giấy, ông vẫn có thể kể kỹ cho chúng tôi từng khâu mà không cần sách
vở gì. Ông bảo “Trước năm 1970, nghề làm
giấy dó của làng vẫn còn thịnh lắm. Chính phủ còn đặt hàng làng chúng tôi làm
giấy dó để in Di chúc của Bác; Điều lệ và Lời kêu gọi của ban chấp hành Trung
Ương Việt Nam.
Lúc đó tôi thấy tự hào lắm nhưng sau này, các nhà máy giấy công nghiệp ở Phú
Thọ phát triển, giấy truyền thống không được ưa chuộng, giờ cả làng chỉ còn
Nguyễn Thế là còn giữ được kỹ thuật làm giấy mà thôi”.
Gần 30 năm, sau khi
những mẻ giấy dó của cùng của làng được làm, ông Đoán vẫn giữ lại những dụng cụ
làm giấy dó của cha ông xưa và cũng đã thử làm lại giấy dó, nhưng công việc lại
phải bỏ dở giữa chừng bởi xu hướng thị trường không còn ưa chuộng giấy dó nữa
và thị hiếu của người tiêu dùng cũng không còn mặn mà mấy với loại giấy thủ
công này.

Dụng cụ làm giấy trong nhà của nghệ nhân

Cây cãnh - nguyên liệu để làm giấy dó lụa
Dẫu vậy trong ông
vẫn là một trái tim rực cháy muốn khôi phục lại làng nghề của cha ông. “Nếu bây
giờ có một cái xưởng để sản xuất giấy dó thì người của dòng họ Nguyễn Thế chúng
tôi đủ sức để khôi phục lại nghề làm giấy xưa. Lúc đó, đàn ông Nguyễn Thế lại
làm vỏ cây, đàn bà Nguyễn Thế lại seo giấy. Và giấy của Nguyễn Thế chỉ để phục
vụ chính phủ, phục vụ cho việc bảo tồn nghề truyền thống thôi ”, ông tâm
sự.

Đình làng Đông Xá, nơi thờ ông tổ nghề giấy Yên Thái
Đi qua những ngỏ
nhỏ lắt léo của một làng nghề đã hàng nghìn năm tuổi, nhớ lắm tiếng chày Yên
Thái xưa! Biết bao giờ nghề làm giấy dó lụa mới trở lại? Và những người dân nới
đây lại tấp nập bên những lò đồ vỏ cây làm giấy?
Mai Hà