Văn
hóa phi vật thể, từ một góc độ nào đó, có thể xem là một dòng chảy tâm
linh tồn tại vững chãi và bền bỉ trong đời sống cộng đồng. Trải qua
nhiều thế hệ, những giá trị văn hóa tinh thần đó đã trở thành tài sản
của con người trong cuộc sống hài hòa với tự nhiên, chứa đựng trong lòng
nó một thái độ và một hệ thống những hành vi ứng xử của con người với
con người và của con người với thiên nhiên trong một mối quan hệ hài
hòa, thân thiện vốn không thể tách rời...
|
Di sản văn hóa là tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc |
Thế nhưng trong những năm vừa qua, đặc
biệt là vào những dịp đầu xuân, tại các lễ hội tưng bừng khắp cả nước,
người ta cũng dễ dàng nhận ra những biểu hiện biến tướng đầy tiêu cực
của những giá trị này. Nguyên nhân thì có nhiều, song làm gì để khắc
phục thì lại không phải dễ. Vậy nên thiết nghĩ một lần nhìn lại những
thăng trầm của các giá trị này cũng là việc không thừa, để mà hiểu, để
mà ngẫm ngợi trong thời điểm mùa lẽ hội lại đang về
Lịch sử của loài người nói chung, của
mỗi dân tộc nói riêng, và nhỏ hơn nữa, là của mỗi cộng đồng, đều là sự
tổng hợp của một quá trình tích lũy nhận thức. Từ nhận thức đó sinh ra
các hành vi. Hành vi tan hòa vào cuộc sống để tạo thành một hệ thống giá
trị.
Chính vì vậy mà để nhận diện ra những
giá trị đó, căn cứ đầu tiên phải nhìn đến chính là cấu trúc của những
cộng đồng đã sinh ra nó; và thêm nữa, là những đóng góp của nó vào sự
trường tồn của cộng đồng. Văn hóa phi vật thể vì thế luôn mang màu sắc
dân gian, có sự gắn bó chặt chẽ, đồng hành với đời sống và trở thành
những “di sản sống”, những “giá trị sống”.
Chính điều này đã được các nhà nghiên
cứu trên thế giới xác định một cách tóm tắt: “Không thể có văn hóa dân
gian (Folklore) nếu không có dân gian (Folk)”, và sau đó đã được ghi
nhận chính thức trong Công ước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đã
được Đại hội đồng Unesco nhất trí thông qua vào ngày 17/10/2003, và có
hiệu lực từ tháng 4/2006: “Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các
tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức và kỹ năng... mà
các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân,
công nhận là một phần di sản văn hóa của họ.” (Công ước Unesco 2003,
điều 2.1)
Từ nhận thức dẫn đến hành vi. Văn hóa
phi vật thể, vì thế chính là cơ sở để tạo nên những giá trị vật thể của
văn hóa của cộng đồng. Điều này lý giải vì sao nó có được sức mạnh bền
bỉ để trường tồn, vượt qua bao nhiêu biến thiên của thời gian cũng như
thời cuộc…
Sự phát triển (hay nói đúng hơn là sự
khôi phục lại) của các loại hình Văn hóa, nghệ thuật dân gian, Lễ hội
truyền thống, Tập quán xã hội và tín ngưỡng, Nghề thủ công truyền thống…
trong hệ thống các loại hình Di sản văn hóa phi vật thể, cả về số
lượng, mô hình và khu vực… trong thời gian vừa qua là một tín hiệu đáng
mừng về thái độ ứng xử của chúng ta (nói riêng) và của con người (nói
chung) đối với những giá trị truyền thống, một nhận thức mới trong chiến
lược đầu tư cho tương lai…
Còn nhớ cách đây không lâu, do nhận thức
chưa đầy đủ về khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể; chúng ta chỉ coi
nó như là một bộ phận mang tính chức năng của các Di sản văn hóa vật
thể, chứ không phải là một dạng di sản có tính độc lập tương đối; nên
việc bảo vệ và phát huy những giá trị của nó chưa được quan tâm thỏa
đáng, dẫn đến tình trạng nhiều giá trị văn hóa phi vật thể đã bị biến
dạng, thậm chí còn bị thất truyền, mai một, bị tách khỏi không gian văn
hóa của nó, trước sự xói mòn của thời gian, và đặc biệt là của sức ép
kinh tế.
Hệ lụy của tình trạng này dẫn đến hàng
loạt những phản ứng của thiên nhiên và xã hội vào đời sống cộng đồng
trong suốt một thời gian dài, đã khiến cho con người phải nhìn nhận lại
thái độ ứng xử của mình. Và kết quả là sau cuộc họp Đại hội đồng lần thứ
32, diễn ra vào tháng 10/2003, UNESCO đã thông qua Công ước bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Từ sự nhận diện này, chúng ta mới
bắt đầu có cách tiếp cận tương đối toàn diện về loại hình di sản này…
Ở Việt Nam, di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể được coi là hai bộ phận hữu cơ cấu thành kho tàng di sản văn
hóa dân tộc. Nếu như Di sản văn hóa vật thể là những giá trị hữu hình,
tồn tại dưới dạng vật chất, chứa đựng những hồi ức sống động của loài
người, là bằng chứng vật chất của các nền văn hóa, văn minh nhân loại;
thì Di sản văn hóa phi vật thể là những giá trị vô hình, được lưu truyền
và biểu hiện bằng hình thức truyền miệng, truyền nghề và các dạng bí
quyết nghề nghiệp khác.
Cả hai loại hình này luôn gắn bó mật
thiết, có tác động tương hỗ và tôn vinh lẫn nhau, nhưng vẫn có tính độc
lập tương đối… Phàm là người Việt Nam, hẳn ai cũng đã từng ít nhất một
lần hào hứng tham gia vào một trong những hoạt động lễ hội ở một miền
quê, một vùng đất; cũng đã từng bâng khuâng trước những làn điệu dân ca
đằm thắm, trữ tình, da diết; cũng từng thành kính thắp lên bàn thờ những
nén hương trầm thơm ngát để tưởng nhớ ông bà, tổ tiên trong mỗi dịp Tết
đến Xuân về; hay từng ngỡ ngàng thảng thốt bên một nét hoa văn dịu
dàng, tinh tế của những sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ một làng nghề mộc
mạc, thâm trầm…
Tất cả những cảm xúc đó cứ tự nhiên thấm
đẫm vào hồn ta mà chẳng bao giờ phải để tâm đến chuyện nó đến từ đâu,
từ khi nào… Dường như trong từng giọt máu, từng hơi thở của ta đã có sẵn
từ lâu…
Vâng, chính tất cả những thứ mà ta đang
“cảm thấy” trong cuộc sống thường ngày ấy, những thứ “phi vật thể” mà ta
đang đắm chìm trong nó từng ngày từng giờ ấy, là những thứ đã đắp bồi
nên con người ta, tâm hồn ta. Nó là di sản của cha ông ta để lại từ ngàn
xưa, nhưng nó cũng là báu vật của ta hôm nay, và là tài sản thừa kế của
con cháu chúng ta sau này…
Di sản văn hóa, trong đó có văn hóa phi
vật thể, là tài sản vô giá, là dinh dưỡng nuôi nấng, gắn kết cộng đồng
dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, và là cơ sở để sáng tạo những
giá trị mới trong giao lưu văn hóa. Nó tồn tại phụ thuộc rất nhiều vào
nhận thức và hành vi của con người, là các chủ thể sáng tạo văn hóa và
chủ sở hữu di sản để rồi từ đó làm nên sức mạnh, sức đề kháng của cộng
đồng…
Trong suốt chiều dài lịch sử, chúng ta
đã từng nhiều lần mất nước nhưng không mất làng, nên cuối cùng vẫn có cơ
sở để giành lại đất nước. Về văn hóa cũng tương tự như vậy.
Do sức đề kháng của cấu trúc cộng đồng,
chiếc nôi của văn hóa phi vật thể, nên chúng ta đã không bị đồng hóa
trước những thế lực văn hóa lớn, và từ chính cái lõi bền vững này mà văn
hóa Việt Nam đã có sức đồng hóa ngược đối với các văn hóa ngoại lai,
thanh lọc chúng cho mình, làm giàu, làm mạnh mình lên. Cũng từ cái lõi
gốc này mà sinh sôi nảy nở, đa dạng hóa, có thể đến vô cùng. Đây là nét
đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa Việt Nam…
Không chỉ gắn bó với các chủ thể văn
hóa, là các cộng đồng dân tộc, Di sản văn hóa phi vật thể còn hòa quyện
vào không gian sinh thái - nhân văn, nơi chúng được sáng tạo ra và tiếp
tục hiện diện, tồn tại và phát triển như một thực thể sống trong đời
sống của cộng đồng. Điều này vừa có nghĩa lịch sử, lại vừa mang giá trị
thời đại.
Chính từ ý nghĩa này mà Di sản văn hóa
phi vật thể cần phải được có một thái độ ứng xử hết sức uyển chuyển. Vừa
bảo lưu và chuyển giao qua nhiều thế hệ, lại vừa sàng lọc và sáng tạo
không ngừng nghỉ để làm cho kho tàng di sản văn hóa ấy ngày càng phong
phú, đa dạng và cập nhật hơn với đời sống đương đại. Đó chính là con
đường phù hợp với quy luật sáng tạo và phát triển của các giá trị văn
hóa, giá trị phi vật thể…
Sinh ra, tồn tại đồng hành với sự phát
triển; mọi giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hóa không thể chấp nhận sự bảo
thủ, cứng nhắc, bởi đó chính là nguyên nhân tất yếu của sự đào thải,
loại trừ, thậm chí tàn lụi. Giá trị của lịch sử và văn hóa là ở phần
hồn, chứ không phải ở sự đông cứng và bất biến. Chính vậy nên mới nói:
Giữ gìn Di sản văn hóa phi vật thể là giữ "phần hồn" cho mai sau là vậy.
Theo: thoibaonganhang.vn