Trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa thì
mối quan hệ con người và văn hóa truyền thống là cực kỳ quan trọng. Xét ở
phương diện hội nhập sẽ thấy rõ chỉ nhờ có kế thừa từ truyền thống mới
tạo ra được bản sắc văn hóa. Xét ở góc độ cá nhân văn hóa thì cây xanh
không thể không có cội rễ, con người không thể không có cội nguồn. Nhân
cách con người phát triển là nhờ được ươm trồng vào mảnh đất văn hóa dân
tộc, được quang hợp bởi ánh sáng tiến bộ của thời đại. “Lá rụng về
cội”, điều này lý giải bao người Việt gần như cả đời xa quê, khi tuổi
già lại muốn trở về nơi quê cha đất tổ, có từ biệt cuộc đời cũng xin nằm
lại với quê hương. Người ta nói đúng: Có thể đưa một đứa trẻ ra khỏi
quê hương của nó nhưng không thể đưa quê hương ra khỏi đứa trẻ. Vì quê
hương là cái nôi văn hóa, là hiện thân của văn hóa.
Với bất kỳ quốc gia nào thì văn học-nghệ
thuật truyền thống luôn là mạch nguồn nuôi dưỡng đời sống tâm hồn dân
tộc. Vì ở đó là sự kết tinh tâm lý, tính cách dân tộc, là những bài học
đạo lý được tích lũy, gạn lọc, lưu truyền từ ngàn đời, được bổ sung,
hoàn chỉnh theo thời gian. Đó thực sự là những viên ngọc để con người
hiện tại soi vào đó mà hoàn thiện nhân cách mình. Ở nước ta, những vở
chèo cổ như: “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Nham”, “Tống Trân Cúc Hoa”, “Lưu
Bình-Dương Lễ”… những vở tuồng đồ như: “Sơn hậu”, “Tam Nữ đồ vương”,
“Nghêu Sò Ốc Hến”… vừa là những mẫu mực nghệ thuật sân khấu vừa là những
áng văn chương chuyển tải những ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Bài thơ
“Tiếng đàn bầu” (thơ Lữ Giang, phổ nhạc Nguyễn Đình Phúc) không chỉ nói
về tiếng đàn bầu mà còn có sức truyền cảm, lan tỏa, thấm đẫm chức năng
“thanh lọc” tâm hồn con người của nghệ thuật truyền thống: “Tiếng đàn
bầu của ta/ Cung thanh là tiếng mẹ/ Cung trầm là giọng cha…/Tiếng đàn
bầu Việt Nam/ Ngân tiếng vàng trong sáng/ Ơi cung thanh cung trầm/ Rung
lòng người sâu thẳm…”.
Văn hóa dân tộc luôn là điểm tựa cho đời
sống tinh thần con người. Thiếu khuyết sự hiểu biết về văn hóa dân tộc
sẽ dẫn đến nguy cơ khuyết thiếu về nhân cách văn hóa. Chúng ta tự hào có
một nền văn nghệ truyền thống mang bản sắc Việt đã góp phần hun đúc nên
một tính cách Việt.
Nhưng hiện nay có bao nhiêu thanh thiếu
niên thiết tha với nghệ thuật truyền thống? Ngay ở các trường đại học
chuyên về nghệ thuật có khi còn không tuyển đủ số sinh viên vào học các
ngành nghệ thuật dân tộc. Một khi con người quay lưng lại với truyền
thống tức là có nguy cơ con người cự tuyệt với cội nguồn!
Vì sao có tình trạng ấy? Nguyên nhân
khách quan là, sự xâm lăng ồ ạt của văn hóa hiện đại: Điện ảnh, truyền
hình, internet, điện thoại di động… Về chủ quan là sự thiếu chủ động
trong việc giữ gìn, phát huy, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Cụ thể
là chúng ta như chưa tạo ra cơ chế thích ứng của nghệ thuật truyền
thống với kinh tế thị trường; chưa có kế hoạch cụ thể, hệ thống, lâu dài
trong việc bảo tồn, giữ gìn di sản... Có một nguyên nhân mang tính bản
chất của tiếp nhận nghệ thuật là mâu thuẫn giữa việc cần thiết phải giữ
gìn nghệ thuật truyền thống nhưng lại thiếu giáo dục công chúng về nghệ
thuật truyền thống. Mà lô-gích thông thường của giao tiếp là có hiểu thì
mới yêu. Quy luật của nghệ thuật là quy luật của tình cảm, của cảm xúc.
Phải thấu hiểu và thấu cảm hình tượng nghệ thuật, phải có sự rung động
thực sự của tình yêu thương hay nóng bỏng căm hờn mới có thể tiếp thu
được tiếng nói nghệ thuật. Có người không hiểu chèo mà cứ bắt người ta
xem chèo là trái với quy luật giao tiếp, càng trái với quy luật giao
tiếp nghệ thuật. Khắc phục điều này, thiết nghĩ, các nhà quản lý, các
nhà giáo dục nên sớm có kế hoạch đưa nghệ thuật truyền thống vào nhà
trường phổ thông, cao đẳng, đại học, có thể là môn học riêng hoặc lồng
ghép vào các môn học xã hội-nhân văn. Giới thiệu, hướng dẫn, gợi mở,
khuyến khích mọi người tiếp thu, trân trọng, hiểu nghệ thuật để mọi
người cùng gắn bó yêu nghệ thuật của cha ông mình-một kho tàng vàng ngọc
tinh thần vô cùng quý giá.
“Gìn vàng giữ ngọc cho hay”.
Theo: qdnd.vn