Chỉ có thể gọi là duyên, tất nhiên với
lòng yêu mến vô hạn văn hóa miền đất Tây Nguyên mà ngôi nhà số 27 đường
Lương Thế Vinh, thành phố Đà Lạt của anh trở thành một không gian lưu
giữ rất nhiều hiện vật quý giá và đa dạng.
Ở đây có chiếc ghế làm bằng xương voi
duy nhất ở Việt Nam - dành cho vua săn voi ngồi cúng mỗi khi đi săn voi.
Chiếc ghế “dễ sợ” này nằm ở giữa bộ sưu tập săn bắt, hái lượm. Đằng sau
chiếc ghế là hàng chục chiếc ná, kèm ống tên đã tẩm thuốc độc. Một loạt
giáo, mác, lao, đòng bằng đồng, bằng sắt được cắm ngược lên trên. Một
bộ dụng cụ bẫy voi đặt ngay bên phải, tăng vẻ uy dũng cho chiếc ghế đã
được cài hai răng nanh voi.
Vài bộ bễ thụt lửa để rèn sắt bên cạnh
các loại công cụ sản xuất như xà bách, xà gạt, rìu, dao… không cái nào
giống cái nào, chắc chắn “không đụng hàng trên toàn thế giới” cho thấy
một Tây Nguyên yêng hùng của các chàng Đam San, Xinh Nhã…
Kiến trúc sư Ngô Thanh Hùng (Đà Lạt) và
KTS Nguyễn Hòa Hiệp (TP Hồ Chí Minh) đã rất “choáng” trước bộ sưu tập
nhạc cụ đặc sắc của Tây Nguyên: từ trống da voi, trống da nai, trống da
trâu, da dê đến trống đồng… chiếc nào cũng “độc nhất vô nhị”. Hiệp nói
chưa từng nhìn thấy chiếc trống đồng để cúng nào nhỏ lại đẹp đến thế…,
chưa từng nhìn thấy hoa văn trên trống đồng nào lại có con chim phượng
hoàng dắt ba con chim nhỏ dễ thương đến lạ lùng…, lại còn đàn đá, đàn
gió, đàn tinh ning, đàn goong, đàn cha pi…
|
Nhờ công việc “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với bà con các dân tộc, anh được bà con yêu mến tặng cho một số cổ vật.
|
Khèn bầu sáu ống, khèn bầu một ống, sáo
bầu ba lỗ, khèn sừng trâu, tù và bằng sừng dê… Đàn môi, đàn sáu dây, đàn
tơ rưng toàn những bộ chuẩn, đã từng tham gia giao lưu văn hóa 54 dân
tộc Việt Nam, có bộ đã từng theo chủ đi lưu diễn ở 25 nước trên thế
giới.
Chuyên gia nghiên cứu sưu tầm bảo tàng
Nguyễn Trường An đã “phát sốt” trước bộ sưu tập ghè, chóe cổ có giá trị
mỹ - kỹ thuật cao: kia là chiếc chóe đổi voi, chóe thế mạng (nếu làm
chết voi, chết người có thể đền bằng những chiếc chóe này), chóe mẹ bồng
con, tố xà lung (tương đương với 11 con trâu), chum các loại của người
Chăm cổ, jăng đựng rượu cần của người Thái xưa. Nhiều nhất là các loại
bình, chóe cổ đến từ Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn thời Lý (TK 11-13), Trần
(TK 13-14), Lê (15-18) với hai trung tâm Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu
(Hải Dương).
Nhiều loại chóe có chiều cao 25 - 30 cm
được phủ men mầu nâu sáng, cá biệt có chiếc tráng men mầu xanh lục, mầu
vàng xẫm, màu xám xanh đến từ các lò gốm sứ miền trung Việt Nam (Gò
Sành - Bình Định). Hoa văn trang trí phổ biến là vẽ chìm dưới men. Chủ
đề chính sử dụng cho trang trí là hoa lá và các loại hoa dây.
Ở đây cũng xuất hiện những chum, chóe
quý hiếm nặn bằng tay của người Khmer cổ có men màu nâu sắt, hoa văn
khắc chìm sóng nước hoặc hình gân lá có niên đại TK 11-13. Có bình gốm
sứ Thái-lan men mầu xanh lục trong suốt, xương có mầu phớt hồng, hoa văn
được vẽ khắc chìm dưới men gồm những đường tròn đồng tâm hoặc hình búp
sen hoặc hình hoa thị mầu đen trên nền men màu trắng ngà đạt trình độ kỹ
thuật cao.
Hàng chục chiếc bình gốm sứ với đặc
trưng của gốm hoa lam, bạch định, tam thái, men ngọc, men mầu nâu đỏ,
mầu vàng tối, mầu xám xanh có nguồn gốc ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang
Tây, được sản xuất từ TK 9-16 ở Trung Hoa. Hoa văn trang trí có chủ đề
dây lá, mai, liên, cúc, trúc, sen, mẫu đơn hoặc các loại cây này đi với
động vật như: mai - điểu (chim), liên - vịt, cò, thiên nga hoặc ngựa phi
nước đại, cá nhảy, rồng cách điệu…
Thông điệp của bộ sưu tập chính là nét
đặc trưng riêng có của cổ dân Tây Nguyên gắn với rượu cần, rượu vò, bếp
lửa… nơi hàng đêm, già làng kể khen, ngâm kể Nrí luật tục, hát đối, hát
Yal Jao, Tam pớt, Lảh lông… nối mạch với dòng sử thi bất hủ từ tiền nhân
đến hậu duệ. Giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng Phạm Hữu Thọ thốt lên: Có một
Tây Nguyên giữa lòng Đà Lạt, một Tây Nguyên gắn với các nghề thủ công
truyền thống như nghề rèn sắt, đan lát, dệt thổ cẩm, làm nhẫn đồng, nhẫn
bạc… với đầy đủ bộ đồ nghề đã làm ra các sản phẩm này.
|
Hàng chục chiếc bình gốm sứ với đặc trưng của gốm hoa lam,
bạch định, tam thái, men ngọc, men mầu nâu đỏ, mầu vàng tối...
|
Bộ nào cũng độc đáo, đầy đủ: Thí dụ nghề
dệt có sa quay sợi, dụng cụ tách hạt bông, bộ khung dệt, thuốc nhuộm
bằng vỏ cây, đồ để nhuộm… để bên dưới chiếc áo cổ xưa của người Xê Đăng,
một chiếc khố thổ cẩm cổ dài nhất Tây Nguyên, áo thổ cẩm hai mảnh của
người Mạ được xem là của người Phù Nam TK 2-7. Phạm Hữu Thọ đã từng tham
gia hàng chục cuộc khai quật khảo cổ học và tham quan nhiều bảo tàng
nhưng anh đã phải “nghiêng mình kính nể” trước bộ sưu tập trang sức độc
đáo mà anh chưa từng nhìn thấy ở nơi nào khác, đó là bộ ngà voi căng tai
từ nhỏ đến lớn, cặp lớn nhất được nghệ nhân “thổi hồn” biến ngà voi
thành hai đóa hoa vô thường.
Điều bất ngờ về chủ nhân của bộ sưu
tập Đặng Minh Tâm ở chỗ anh am hiểu đến mức sâu sắc những đồ vật mà anh
lưu giữ. Khi tôi đưa sinh viên đến tham quan, anh mang từng nhạc cụ ra
biểu diễn, giải thích rằng: Lễ hội của các dân tộc bản địa Tây Nguyên
với khèn - trống - chiêng cùng đội múa đi vòng quanh cây nêu theo chiều
ngược kim đồng hồ với ý thức trở về nguồn cội. Anh mang bộ đồ làm nhẫn
bạc bằng phân trâu ra đốt một bếp than nhỏ nung chảy bạc, đổ vào khuôn
cùng sáp ong rồi lấy ra một chiếc nhẫn bạc hệt như một nghệ nhân làm
nhẫn bạc người Chu Ru thực thụ.
Mới đây, khi tìm hiểu lịch sử ngành An
ninh Lâm Đồng, tôi phát hiện anh vốn xuất thân là lính của tiểu đoàn 1,
tiểu đoàn tăng cường của Bộ Công an vào Lâm Đồng từ năm 1981 để chống
Phun-rô. Anh kể rằng anh bắt đầu “mê” văn hóa Tây Nguyên ngay từ ngày
đầu tiên bước vào ngôi nhà đơn sơ trong buôn làng nhỏ bé giữa đại ngàn.
Kể chuyện này với cha mình, bố anh - một thầy giáo - khuyên con hãy tìm
cách bảo tồn bản sắc các tộc người.
Thế là từ năm 1986 nhờ công việc “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với bà
con các dân tộc, anh được bà con yêu mến tặng cho một số cổ vật. Anh
hỏi, xem, cùng làm và nhớ tất cả, từ việc bà con làm chiếc cối giã gạo,
đan chiếc gùi, chiếc giỏ, đến việc chặt cây, làm nhà… để đến bây giờ anh
trở thành “kho tư liệu” sống về Tây Nguyên.
Theo : danviet.vn