Dù bây giờ, đã xuất hiện lò nung kiểu tuynen
đốt bằng khí ga hay dầu, thì khi cầm trên tay cái bình gốm men lam, men
ngọc, men trắng, men nâu hay men rạn, ta vẫn như thấy có cả hình bóng
nhọc nhằn của những người thợ gốm lung linh trong ngọn lửa nung hơn ngàn
độ ấy. Và khi đó, cái hồn của đất, của người đã hòa chung vào trong
gốm… Một ngày đầu thu, tôi trở lại Bát Tràng…
1. Trong
lịch sử hình thành và phát triển Thăng Long - Hà Nội, thì Bát Tràng là
một trong ít làng nghề cổ của vùng đất địa linh nhân kiệt hơn ngàn năm
tuổi này. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, cách đây hơn 700 năm, dân làng
Bồ Bát, thuộc trấn Thanh Hóa ngoại (nay là xã Yên Thành, huyện Yên Mô,
tỉnh Ninh Bình) là những cư dân có nghề làm gốm đầu tiên di cư đến đây
lập nghiệp, sau khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long định
đô, dựng nghiệp lớn vào năm 1010. Họ đến vùng đất bãi bồi ven sông Nhị,
thấy nơi đây có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm, lại
có vị trí bến thuyền thuận lợi cho việc giao thương bèn dừng lại, lập
phường làm gốm, có tên là Bạch Thổ phường, nghĩa là phường Đất trắng,
thuộc xã Bát Tràng, về sau gọi là làng Bát Tràng. Còn theo lưu truyền về
nghề gốm sứ, thì xa hơn nữa, vào trước năm 1127, có ba vị Thái học sinh
là Hứa Vĩnh Kiều, Đào Trí Tiến và Lưu Vĩnh Phong được triều đình cử đi
sứ Bắc Tống. Khi trở về, qua Thiều Châu (Quảng Đông) nơi làm gốm nổi
tiếng, đã dừng lại học hỏi kỹ thuật rồi mang về nước truyền dạy lại cho
người dân quê hương. Hứa Vĩnh Kiều thì dạy cho dân Bát Tràng làm gốm sứ
với nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho làng Thổ Hà (huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men màu vàng đỏ và Lưu Vĩnh Phong truyền cho
làng Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu vàng thẫm.
Nhưng lại theo nghiên cứu dấu tích tìm được của khảo cổ học, thì gốm Bát
Tràng xuất hiện từ cách nay khoảng 8000 năm, vào giai đoạn cuối của Văn
hóa Hòa Bình đầu Văn hóa Bắc Sơn. Tất cả tư liệu cổ, truyền thuyết cho
đến khảo cổ học dù chưa khẳng định, nhưng đều cho thấy, nghề làm gốm Bát
Tràng ra đời từ rất sớm. Và trải qua nhiều thế kỷ thăng trầm của lịch
sử, những người thợ tài hoa nơi đây vẫn giữ được ngọn lửa nghề của tổ
tiên, để sáng tạo ra nhiều loại đồ gốm quý và độc đáo nổi tiếng khắp
trong và ngoài nước.
Xã Bát Tràng (gồm hai thôn Bát
Tràng và Giang Cao), cách Hà Nội khoảng 20km, với sản phẩm gốm sứ nổi
tiếng, lâu đời của mình giờ đã trở thành điểm đến đầy hấp dẫn cho du
khách bốn phương.
|
Nghệ nhân làng gốm. |
2. Tôi đã nhiều
lần đến Bát Tràng để du ngoạn, để được đắm say ngắm nhìn các chàng trai,
cô gái ở đây với đôi bàn tay như múa trên bàn xoay để biến thứ đất sét
màu trắng xám đã được nhào nặn đến mịn nhuyễn như bột lọc thành hình cái
bát, cái đĩa, cái bình…, dù chẳng phải lúc nào cũng có nhu cầu mua sắm.
Vậy mà, mỗi khi ra về thế nào cũng vẫn phải mua một thứ gì đó ở cái chợ
gốm rộng mênh mông ngay đầu làng. Khi thì mấy cái đĩa gốm có hình cặp
tình nhân lãng mạn nhất của văn học nước nhà Chí Phèo-Thị Nở, đang liếc
nhau cười tình tứ, tràn đầy hạnh phúc. Hay người thiếu nữ áo yếm lả lơi
hai tay vừa nâng, vừa như tốc cái váy sồi đang mặc để chờ hứng quả dừa
mà người đàn ông đang trèo trên cây cao hái thả xuống… Khi thì lễ mễ ôm
cái bình gốm men rạn giả cổ để cắm cành đào ngày Tết, vất vả leo lên
chiếc xe buýt tuyến 47 chẳng lúc nào vơi khách để về trung tâm thành
phố. Thời kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, hàng hóa nước ngoài tràn
ngập ở nước ta, nhất là hàng hóa Trung Quốc. Ở đâu không biết, chứ ở Hà
Nội, không khu phố nào là không có cửa hàng bán đồ gốm sứ Quảng Đông,
Quảng Tây. Nhất là vào dịp cuối năm, giáp Tết. Đồ gốm sứ phương Bắc
nhiều vô kể, đa dạng đủ loại và bán với giá thật rẻ?! Từ bộ ấm chén, bát
ăn thường ngày cho đến các loại bình, lọ gốm, tranh gốm, đèn gốm… với
nước men sáng bóng, đủ màu sắc, hoa văn họa tiết và cả chữ Hán được vẽ
cầu kỳ tinh xảo. Vậy mà (may thay!), hàng gốm sứ Bát Tràng vẫn đứng
vững, bao giờ cũng được người mua lựa chọn, cho dù đắt hơn hàng của Tàu
vài giá cùng chủng loại. Thì ra, không phải lúc nào cứ “rẻ”, cứ “ngoại”
là tốt! Hàng gốm sứ là loại hàng cao cấp, mang tính nghệ thuật cao và
cũng kén người dùng. Chả thế bây giờ đứng đầu các lò gốm Bát Tràng,
ngoài một số ít nghệ nhân cao niên, thì có rất nhiều nghệ nhân của làng
tốt nghiệp Trường đại học Mỹ thuật Công nghiệp về quê khởi nghiệp và
thành danh. Ở Bát Tràng, người ta thường lấy tên của nghệ nhân để gọi
sản phẩm gốm sứ mà họ làm ra. Ví dụ, như nói đến gốm Trần Độ, gốm Vương
Mạnh Tuân, gốm Tô Thanh Sơn là nói đến các nghệ nhân chuyên về phục chế
đồ gốm cổ Thăng Long, men rạn truyền thống, men lam thời Nguyễn. Hay gốm
Vũ Đức Thắng, gốm của vợ chồng Nguyễn Lợi - Phạm Thị Châu là nói về các
loại gốm men nâu có tính độc đáo, giả cổ... Nghề làm gốm là một nghề
nhọc nhằn và rất nghiêm ngặt trong quá trình chế tác. Thợ gốm là người
có tư chất nghệ sỹ và tài hoa để biến những nắm đất sét vô hồn, vô tri
thành những tác phẩm nghệ thuật tinh túy và sinh động. Trước đây, từ thế
kỷ 19, gốm được nung trong lò bầu bằng rơm rạ, tre nứa, sau thay bằng
“củi phác”, “củi bửa”, thứ củi sau khi được bổ ra, xếp thành từng đống
ngoài trời, phơi sương nắng cho ải rồi mới đem sử dụng. Khi chuyển sang
dùng loại lò đứng từ năm 1975 trở lại đây, nguyên liệu chính là than
cám, còn củi chỉ dùng để mồi lò. Than cám trộn kỹ với bùn đất theo tỷ lệ
nhất định rồi nặn thành từng bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn
xong đập lên mặt tường nhà, tường ngõ để cho chóng khô, chóng dùng được.
Nếu đến làng Bát Tràng, đi vào các con ngõ nhỏ ngoằn nghèo, hẹp đến mức
chỉ đủ cho một người đi xe máy, sẽ thấy hai bên tường ngõ chi chít các
bánh than còn in hằn cả dấu bàn tay của người thợ làm than, mà trong đó
có rất nhiều hình bàn tay với những ngón gầy run rẩy của người thợ già,
hay bàn tay với năm ngón bé nhỏ mảnh mai của người con gái nào đó. Khi
ấy, tôi và có lẽ cả bạn sẽ trào lên một cảm xúc khó tả về cái nghề làm
gốm. Nỗi vất vả, nhọc nhằn hiển hiện qua từng nắm than cám trộn bùn, để
rồi khi vào lò nó biến thành ngọn lửa lên đến hơn ngàn độ, đủ sức nóng
để biến các sản phẩm đất sét đã qua tay các nghệ nhân nhào nặn, tạo
dáng, rồi vẽ và phủ men… thành những tác phẩm gốm sứ tuyệt hảo. Dù bây
giờ, đã xuất hiện lò nung kiểu tuynen đốt bằng khí ga hay dầu, thì khi
cầm trên tay cái bình gốm men lam, men ngọc, men trắng, men nâu hay men
rạn, ta vẫn như thấy có cả hình bóng nhọc nhằn của những người thợ gốm
lung linh trong ngọn lửa nung hơn ngàn độ ấy. Và khi đó, cái hồn của
đất, của người đã hòa chung vào trong gốm Bát Tràng!
Hầu hết sản phẩm của làng gốm
Bát Tràng là làm bằng thủ công, thể hiện tài năng sáng tạo và kinh
nghiệm của những nghệ nhân, thợ gốm được lưu truyền qua rất nhiều thế
hệ. Đấy chính là nét đặc sắc và cũng là thế mạnh của làng nghề truyền
thống Bát Tràng. Do tính chất của nguyên liệu làm gốm và việc tạo dáng
đều làm trên bàn xoay cùng với việc sử dụng các loại men khai thác từ
truyền thống, nên đồ gốm Bát Tràng có cốt cách riêng, không bóng bẩy như
làm bằng máy và công nghệ hiện đại như gốm nước ngoài. Gốm Bát Tràng
tinh xảo trên từng nét vẽ, lớp men phủ bởi bàn tay tài hoa của người
thợ, nên cốt dầy, chắc, lớp men trắng thường ngả màu ngà đục. Cũng chính
vì làm thủ công, nên gốm Bát Tràng rất phong phú về chủng loại từ đồ
gia dụng đến đồ thờ cúng, trang trí. Sản phẩm của làng gốm Bát Tràng là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng
tạo nghệ thuật. Các sản phẩm đó mang dấu ấn riêng của từng lò gốm, gắn
liền với tên tuổi của các nghệ nhân, lại được thử thách, chọn lọc qua
thời gian nên mang bản sắc văn hóa đặc trưng của Bát Tràng. Giá trị của
mỗi sản phẩm gốm Bát Tràng được khách hàng nhìn nhận dưới góc độ văn hóa
- nghệ thuật hơn là giá trị sử dụng thông thường. Và đó cũng là câu trả
lời là vì sao đến ngày hôm nay, dù trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh rất gay gắt, nghiệt ngã, thì làng gốm Bát Tràng vẫn bền bỉ và vững
vàng phát triển một cách đầy tự hào.
|
Chợ gốm Bát Tràng. |
3. Một ngày đầu
thu tháng tám, tôi lại về Bát Tràng và ghé thăm ngôi đình làng nổi tiếng
nằm gần bến thuyền du lịch. Nơi đây thuở xa xưa tấp nập thuyền bè tứ xứ
đổ về chở theo hàng hóa và cả củi, than, đất sét. Rồi khi rời bến, các
con thuyền buôn lại ngược xuôi dòng sông Nhị mang theo những sản phẩm
gốm sứ tuyệt đẹp và độc đáo của Bát Tràng đến khắp mọi miền. Trong đó,
có cả những con thuyền lớn xuôi ra biển cả, vượt trùng khơi để gốm sứ
Bát Tràng có mặt ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản. Trải qua gần 400
năm, ngôi đình cổ vẫn uy nghi đứng đó, bề thế, bố cục theo kiểu chữ Nhị,
bốn mái lợp ngói mũi hài nghiêng cong vút. Trên các đầu mái đắp hình
Nghê có dáng mềm mại, khỏe khoắn và uy nghiêm. Một bức hoành phi đại với
4 chữ thếp vàng “Bạch Hổ Danh Sơn” treo chính giữa phía trên cửa lớn
vào đình, gợi nhớ thời Bạch Thổ phường xa ngái. Đình làng Bát Tràng xây
dựng vào năm 1720, đời vua Lê Dụ Tông, thờ 6 vị thần Thành hoàng, trong
đó có Lưu Thiên tử Đại vương được tôn là Thành hoàng, là Thánh cả của
nghề làm gốm, được thờ ở chính giữa, nơi vị trí trang trọng nhất của
đình. Ngày hôm nay, trước cơn lốc của đô thị hóa, làng gốm Bát Tràng đã
thay đổi nhiều. Những ngôi nhà khang trang, kiến trúc hiện đại cao bốn
năm tầng đã mọc lên nơi đây. Đời sống của dân làng Bát Tràng đã trở nên
giàu có theo đúng nghĩa của nó, bởi hàng năm chỉ riêng hàng xuất khẩu đi
các nước cũng đem về cho làng hơn 20 triệu USD. Nhưng bên cạnh đó, ngày
ngày… hàng trăm lò gốm hoạt động thải vào không gian và cống rãnh vô
vàn khói, bụi và nước thải. Chợ quê Bát Tràng giờ đã hoạt động như một
trung tâm thương mại lớn, là đầu mối giao thương cho cả làng nghề, cũng
không còn cái mộc mạc, thuần chất như xưa. Đã có vài lần, vì hám lời,
một số hộ buôn bán đã đem hàng gốm sứ Trung Quốc vào bán lẫn với sản
phẩm gốm Bát Tràng để lừa khách du lịch… Đó là những thách thức mà người
dân Bát Tràng đang phải đối mặt, dù ai đó cho rằng, đó chỉ là những hạt
sạn trong một bữa tiệc lớn?!. Nhưng thưa rằng, những hạt sạn tưởng như
rất nhỏ ấy cũng đủ làm hỏng bữa tiệc, làm cho danh tiếng làng nghề bị
mai một ít nhiều.
Không biết tôi có phải là người cả nghĩ và quá lo xa?!
Theo :cand.com.vn